Huyền môn ký (Một cõi âm dương)-Chương III
Tác giả : Tamandieungo
CHƯƠNG III:
Tiếng cô Hai kéo tôi trở về với thực tại:
- Cậu Hai nghĩ gì mà thần người ra vậy?
- À, không,tôi chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà!
- Cậu Hai à, từ sau chuyện xảy ra ở nhà cậu, tui thấy cậu hay mơ màng lắm nghe…
Tôi đánh trống lảng:
- Sao cô lại có mặt ở đây vậy?
- Ủa, cậu quên tui quê ở đây sao?
- Ờ há, tôi không để ý …
- Còn cậu, sao cậu lại ở đây?
- Tôi đưa khách đi miền Tây, ghé Uỷ Ban nghỉ một đêm, mai đi tiếp.
- Vậy là tốt quá rồi. Cậu ghé đây rõ ràng là do ơn trên xoay chuyển. Tui không còn lo nữa.
- Nhưng mà cô lo chuyện gì?
- Cậu hổng nhớ tháng trước tui ghé nhà cậu nhờ cậu về Mộc Hoá một chuyến giúp gia đình tui à?
- Lúc đó rối bời, tôi đâu có để ý kỹ. Thôi, cô kể lại chi tiết giùm tôi đi.
- Chuyện là vầy…
…Châu là con gái bác Tư Xê, gọi cô Hai Xa Cảng là cô họ. Năm nay Châu vừa tròn 19 tuổi, cái tuổi xuân thì vừa đủ độ chín mùi để làm gục ngã bao chàng trai trong vùng. Chẳng những thế, Châu còn hát hay, cấy giỏi. Mỗi khi bà con cấy vần công, ai nấy bị Châu bỏ xa. Có khi cô còn cấy bao nhốt mấy chàng vào trong đám mạ phải la oai oái. Nhiều nhà có con trai mới lớn đều ngắm nghía và tính chuyện làm sui với bác Tư. Bác Tư lấy chuyện này làm điều thích thú. Mỗi khi đi đám tiệc ở đâu, nhắc đến Châu là y như rằng bác khoe hết lời khiến nhiều người cứ tấm tắc hít hà…Thật ra , bác cũng đang âm thầm kiếm một chàng rễ vừa ý.
Vậy mà, đùng một cái cô Châu có bầu. Lúc đầu thấy cô nôn oẹ, biếng ăn, ở nhà cứ tưởng cô làm nhiều sinh bệnh. Nhưng rồi những triệu chứng của một người ở cử càng lúc càng lộ rõ, nhất là cái eo vốn thon thả của cố cứ tròn dần ra một cách công khai khiến mọi người tá hoả. Bà con lối xóm xì xầm bàn tán, rủ nhau đoán già đoán non về tác giả cái bào thai kia. Trước đây, mọi người ca ngợi Châu bao nhiêu thì bây giờ cái tiếng thị phi cũng tương xứng bấy nhiêu. Vợ chồng bác Tư thì khỏi nói. Bác gái lúc nào cũng rền rĩ than trời trách đất, rồi trách bản thân vô phước có một đứa con gái hư thân mất nết như Châu. Bác Tư Xê thì ngày nào cũng tra hỏi cật vấn rồi mắng chửi đánh đập. Có hôm ra đồng, mặt mày Châu sưng tím, tay chân lằn ngang lằn dọc vì trận đòn dữ tợn của bác Tư. Mọi người càng dè bĩu, bác Tư càng đánh chửi thì Châu càng im lặng. Cái im lặng thật đáng sợ ẩn chứa một sự phản kháng ngầm…
Bất ngờ lúc giữa trưa, làng xóm nghe tiếng gào khóc của bác Tư gái. Mọi người ùa sang thì thấy cô Châu cả người tím tái, mắt trợn dọc, bọt mép sùi ra hai bên ướt cả chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, ướt cả chiếc chiếu cô nằm. Người cô nẩy lên từng cơn như bị kinh phong. Bà con xúm nhau lại cạo gió, cắt lưng, giật tóc mai nhưng cô chỉ còn nảy người lên vài cái rồi rủ xuống tắt thở. Cô chết nhưng đôi mắt vẫn mở to, nhìn vào hư không như oán trách điều gì. Dưới chân giường vẫn còn chai thuốc xịt rầy đã vơi hơn phân nửa.
Vậy là mọi người lại bắt tay vào lo hậu sự cho cô Châu. Đôi mắt cô vẫn mở to không nhắm, người nhà làm đủ cách nhưng đôi mắt vẫn cứ mở trừng trừng khiến ai nấy rởn óc không dám nhìn lâu. Cuối cùng, mấy vị chức sắc trong Cao Đài quyết định lấy chiếc khăn đỏ phủ lên đôi mắt cô rồi làm nghi thức an táng. Vì cô Châu chết lúc đang có mang nên bên mộ của cô Châu, người ta trồng một cây chuối sứ, chừng nào chuối trổ buồng thì đứa nhỏ ma cũng được chào đời.
Ba ngày sau, chuyện lạ bắt đầu xảy ra…
Ông Tám thợ rèn đi ăn đám giỗ bên kia sông nên về muộn hơn thường ngày. Trời chạng vạng ông mới khật khà khật khưỡng qua đến đám ruộng của bác Tư Xê. Một cơn gió lạnh thổi qua làm ông rùng mình. Cái “bầu tâm sự” của ông cần có chỗ để trút. Ngó quanh quất không thấy ai, ông vén quần tè luôn trên bờ ruộng. Chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng :
- Ông Tám đi đâu về tối quá vậy…?
Tưởng gặp người quen, ông Tám lập tức ngưng ngay công việc “tưới ruộng”. Vừa xả ống quần xuống ông vừa vội trả lời:
- Ừ, tao đi đám giỗ về …mà đứa nào hỏi đó bây?
Nhưng, khi quay người lại, ông chẳng thấy bóng dáng người nào. Tưởng uống rượu nhiều quá nên mơ hồ, ông Tám lắc lắc cái đầu như xua tan cơn say, tiếp tục giải quyết chuyện của mình. Vừa mới kéo ống quần lên, ông nghe tiếng kêu thật lớn:
- Ông Tám…
Lần này không thể lầm lẫn được, ông Tám quay phắt lại nhìn. Trong không gian nhá nhem tối, ông chợt phát hiện mình đang đứng gần nấm mộ của cô Châu. Mồ hôi lạnh toát ra ướt áo, ông Tám tỉnh hẳn rượu vội co giò chạy một mạch về nhà, mặt mày tái mét, nói chẳng ra lời. Hôm sau ông ngã bệnh…
Trường hợp ông Tám không phải là duy nhất. Thím Năm Hoài, rồi cô Hai Lành, thằng Rạch con ông Ba Thớm đầu xóm cũng thấy cô Châu hiển linh. Thằng Rạch kể, chiều hôm đó nó lùa trâu về nhà, lúc ấy trời chưa tối hẳn, đi ngang mộ của Châu, nó thấy cô đứng sẵn tự lúc nào. Lúc đầu nó còn tưởng cô nào ở trong vùng đang hẹn hò với bồ, không dè đến gần nó thấy cô Châu đang cười nhìn nó. Vẫn là chiếc áo bà ba bông tím hoa cà mà ở nhà mặc lúc liệm xác cô, vẫn nụ cười duyên quen thuộc với bà con lối xóm. Cô lấy tay ngoắc. Hồn vía lên mây, thằng Rạch cắm đầu chạy, vừa chạy nó vừa la bài hãi: “ Trời ơi!…Ma…ma…a…”Về đến nhà nó ngã vật ra sùi bọt mép, lên cơn co giật. Báo hại cả xóm gần cả đêm không ngủ với nó. Người lớn vừa kiếm thầy cắt lễ cho thằng Rạch vừa cử mấy tay thanh niên chạy ra ruộng tìm trâu.
Trong khi cả xóm còn đang kinh hoàng thì sau lễ cúng cửu đầu tiên (đạo Cao đài lấy chín ngày để cúng vong nên gọi là cửu, khác với đạo Phật cúng thất sau khi người chết được bảy ngày ) nhà cô Châu bắt đầu có chuyện. Buổi tối, cả nhà nghe tiếng lục đục trong buồng ngủ của cô. Tưởng là chuột nên bác Tư chỉ vỗ vỗ vào vách mấy cái rồi ngủ tiếp. Đến tối hôm sau thì tiếng động càng lớn hơn như ai đó đang lục lọi đồ đạc trong buồng. Cất tiếng hỏi không nghe ai trả lời, bác Tư bưng đèn vào trong xem thử. Tất cả bình thường, không có vẻ gì là xáo trộn. Đêm tiếp theo nữa, cả nhà không ai ngủ được vì tiếng khóc rấm rức từ trong buồng văng vẳng vang ra. Nghe kỹ thì đó là tiếng khóc quen thuộc của cô Châu mỗi khi bị bác Tư đánh mắng. Ở nhà rởn da gà không ai dám ho he. Riêng bác Tư trai vốn có vai vế trong đạo nên còn bình tĩnh, bác hét lớn át cả tiếng khóc:
- Bây sống làm nhục nhã cha mẹ, giờ chết rồi tính làm ma để báo hại gia đình hải không?
Tiếng khóc chấm dứt. Cả nhà yên giấc đến sáng.
Nhưng rồi những đêm sau mọi thứ vẫn tiếp diễn như cũ. Lần này càng lộng hơn, người nhà thấy cô Châu hiện hồn rành rành. Từ trong buồng, cô bước ra quanh quẩn gần tủ thờ rồi khóc lóc. Có khi đang ngủ, vợ chồng bác Tư giật mình thức giấc nghe tiếng của Châu kêu gọi thảm thương:
- Má …ơi! … Tía … ơi…ơi…!
Mở mắt ra nhìn, hai ông bà thấy cô xoã tóc đứng ngay cạnh giường ngủ của mình. Ở dưới quê lúc bấy giờ chưa có đèn điện, nhà nào sang lắm mới xài điện bình. Bình gần cạn phải đi ghe ra ngoài chợ để sạc lại. Nhà bác Tư cũng chỉ xài đèn dầu, trong ánh đèn dầu tù mù leo lét, bóng cô Châu lúc ẩn lúc hiện với mái tóc xoã dài với tiếng khóc nức nở làm mọi người sợ đến mất vía.
Ban đầu là bác gái bỏ buồng trong chạy ra bộ ván ngủ với bác trai, rồi sau đó cả nhà dọn giường qua gian bếp ngủ chung với nhau. Cuối cùng cả nhà bỏ sang nhà bác Ba Xàng ngủ nhờ. Thế là căn nhà của bác Tư … ban ngày dành cho người, còn ban đêm … để lại cho cô Châu về ở.
xXx
… Dường như kể nhiều hơi mệt, cô Hai Xa Cảng dừng lại hớp một ngụm cà phê đá.
- Cô Hai à, tính đến bữa nay thì cô Châu chết được mấy ngày rồi cô?
- Đến ngày mai là vô cửu thứ bảy rồi đó cậu. Nói thiệt với cậu, từ hôm cậu từ chối không nhận, ở nhà đã làm hết cách rồi. Mời bổn đạo đến hộ niệm, mời thầy đến cúng giải vong, mời đồng bóng về cúng bà… hễ ai bày gì là anh chị Tư tui làm nấy nhưng coi bộ hổng ai làm được gì cả cậu Hai à. Cực chẳng đã anh chị Tư tui nói quá nên tui mới về cúng thử xem sao. Biết đâu nó thương tui thiệt lòng cầu nguyện cho nó mà chịu đi đầu thai thì phước ba đời luôn đó cậu.
- Cô về được mấy hôm rồi.
- Mấy đâu mà mấy. Tui đi chuyến xe đầu hôm nay, về đến đây mới có 10 giờ hà. Vậy mà có chút thời gian rảnh đã nghe không biết bao nhiêu chuyện về con Châu nữa.
- Còn thêm chuyện gì nữa?
- Đó, mới hôm qua thôi. Buổi chiều, anh Bảy Niễng chạy hào hễn từ ngoài ruộng về. Vô tới nhà ổng la um lên : “Con Châu nó rượt tui, con Châu nó rượt tui”. Gặp chị Bảy nghễng ngãng còn hỏi lại: “ Trâu làm gì mà rượt ông chứ?” thiệt là cười ra nước mắt luôn. Đến khuya hôm nay, bạn hàng của chị Tư đi ghe qua trước nhà, tính ghé lên lấy đồ. Dè đâu vừa ghé vô thấy nó đứng ngời ngời ngay bến, ai nấy bò càng luôn vậy đó.
Tôi cắt ngang câu chuyện:
- Bây giờ cô định làm sao?
- Thì làm sao nữa, tui định tối nay tụng kinh cầu siêu cho nó. Thấy còn thiếu vài món nên vội chạy ra chợ mua thêm cho đủ.
Cô Hai đổi giọng:
- Cậu Hai ơi, gặp cậu ở đây rồi, thôi cậu giúp tui chuyến này đi nghe cậu.
Tôi không trả lời, quay ra ngó mông lung ngoài sông lớn. Phải chăng tôi gặp cô Hai ở đây là một sự tình cờ? Còn giấc mộng cách đây gần tháng, phải chăng cũng là trùng hợp? Câu chuyện kể của cô Hai làm tôi xúc động. Tự nhiên tôi thấy thương cảm cho số phận của một con người, sống bị người ta chê cười, chết lại bị người ta sợ hãi. Họ sợ hãi điều gì kia chứ? Sợ ma ư? Ai chết rồi mà chẳng thành ma? Ma là người đã chết, người là ma lúc còn sống, có gì khác nhau đâu. Cái kiếp sinh tử luân hồi, ai mà chẳng có một lần phải trải qua. Có điều, người thì ra đi nhẹ nhàng, kẻ thì quyến luyến nấn ná. Chẳng qua là vì họ chẳng cam lòng đó thôi, hoặc giả họ còn điều tâm nguyện nào đó chưa giải quyết nên không chịu nhắm mắt đi xuôi. Cái tâm tham lam, sân hận, si mê theo họ vào cả trong cõi u minh… Biết bao giờ mới giải thoát đây.
- Cậu Hai ơi, cậu giúp giùm tui đi cậu!
Tôi sực tỉnh, quay sang nói với cô Hai:
- Được rồi, cô ghé tiệm thuốc Bắc mua giùm tôi một số vị thuốc sau: Châu sa – 5 chỉ, Thần Sa – 5 chỉ, Son Tàu – 5 chỉ, A Nguỳ – 1 lượng…
Rồi cô ghé vô chợ mua luôn nhang đèn, giấy áo, nãi chuối sứ…ít giấy vàng…
Cô Hai mừng quýnh:
- Giấy vàng và nhang đèn tui mua rồi nè, còn mấy cái kia có ngay thôi. Cậu chờ tui chút nghe.
Nói xong, cô Hai đi nhanh ra khỏi quán. Cái dáng cao gầy của cô tất tả giữa dòng người đang từ dưới bến đi lên.
Nhà bác Tư cách chợ Mộc Hoá khoảng 9 cây số đường sông. Chúng tôi đi ghe máy về tới nhà thì đồng hồ đã chỉ 5 giờ chiều. Thấy cô Hai từ dưới bến đi lên, một người phụ nữ trạc sáu mươi tuổi chạy ra đón lấy giỏ đồ trên tay cô Hai vừa nói:
- Trời chiều rồi mà cô chưa về làm tui lo quá. Sao mà lâu quá vậy?
- Gặp được quới nhơn nên về muộn đó mà – quay sang chỉ tôi, cô Hai giới thiệu – Cậu Hai Dũng, người mà tui kể với chị hồi tháng rồi đó. Hôm nay ra chợ mua đồ, may sao gặp cậu ấy đang ghé huyện làm công chuyện. Vậy là tui đưa cẩu về đây luôn. Còn đây là chị Tư của tui đó cậu.
Bác Tư gái có vẻ mừng rỡ:
- Mời cậu vô nhà, hôm nay mùng Một ở nhà có mấy mẹ con tui. Ổng mắc việc ngoài Thánh thất chắc không về được.
Bữa cơm chiều được dọn ra đạm bạc. Tàu hủ chiên vàng, dĩa rau mốp làm chua chấm chao và tô canh canh rau dền con ăn với cơm gạo mới. Tôi làm luôn ba chén đầy mà vẫn còn muốn ăn thêm, trong đầu chợt liên tưởng đến bữa tiệc ban trưa – nặng nề và tanh tưởi…
Ăn xong, trời cũng bắt đầu chạng vạng. Thoắt cái cả nhà bác Tư biến đi đâu mất, chỉ còn tôi và cô Hai loay hoay chuẩn bị thời kinh.
Khi theo chân cô Hai đi lên gian nhà trên, nơi đó thờ Thiên nhãn, Cửu huyền, bàn thờ của cô Châu cũng đặt ở đấy.
Vừa bước vào gian trên, tôi nhận ra ngay một cảm giác rất lạ. Gian thờ đóng kín cửa lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy gió ở đâu quyện nhè nhẹ vào cổ chân, sương sống tôi có một luồng khí lạnh chạy lên chạy xuống. Tưởng linh phù chữ Phật an ở đảnh và tâm ngực xong, tôi tiếp tục bước vào trong. Đến trước bàn thờ cô Châu, tôi bàng hoàng giật mình đánh thót một cái… chắc mọi người đã đoán ra điều gì rồi. Bức di ảnh của cô Châu trên bàn thờ giống với cô gái trong giấc mộng tháng rồi của tôi như đúc. Nói cách khác, cô gái mà tôi thấy trong lúc mơ màng chính là cô Châu, nhân vật trong tấm ảnh thờ đang đưa mắt nhìn tôi với nụ cười buồn bã…
Thoáng chút bàng hoàng tôi vội trấn tĩnh và bắt đầu thời kinh tụng. Tiếng chuông mõ hoà vào trong ánh sáng lung linh của hai ngọn đèn cầy, trong mùi nhang trầm phảng phất tạo nên bầu không khí liêu trai huyền ảo nhưng ấm cúng. Tôi và cô Hai hoà niệm bài chú Đại Bi:
“ … Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mô a rị da bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da…”
Tiếng chuông điểm vào cảnh tỉnh, tiếng mõ đều đặn dằn tâm, tôi để lòng mình duyên theo bài chú, tâm thức như thấy hình tướng đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm đang ngự giữa hư không, ánh hào quang phóng ra tiếp dẫn vong hồn… từng luồng điện chạy dọc theo sống lưng , chạy ra hai tay từng đợt từng đợt làm tôi gai cả người. Tôi có cảm giác như vong hồn cô Châu đang hiện về trong tiếng chú.
“ Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ tát… Phật thuyết A Di Đà kinh. Như thị ngã văn…”
Bổn kinh Di Đà hầu như tôi thuộc nằm lòng. Từng lời từng lời trong kinh như mở ra cả một thế giới hư không với cõi Tây phương trang nghiêm Tịnh độ. Bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Phật Di Đà dẫn dắt chúng sanh về Phật quốc, cầu cho vong hồn của cô Châu thức tỉnh bến mê mà quay về bờ giác. Về đi thôi, về đi cô Châu ơi, luyến tiếc làm chi một chút hồng trần, hãy duyên theo lời hộ niệm mà thức tỉnh, hãy nương theo ánh hào quang của chư Phật ba đời mà thoát khỏi biển khổ này. Tôi tụng cho cô cũng như tụng cho thằng em đã mất của tôi. Nó và cô đã lìa bỏ cuộc đời, vậy đừng nên quyến luyến làm gì thêm khổ não.
… Xong thời kinh Phật, tôi nhờ cô Hai đem sẵn châu sa thần sa hoà trộn với son tàu thành một thứ mực đỏ sẫm. Chắp tay kết ấn trì tụng Quang Minh cam lộ chơn ngôn 21 biến, tôi dùng son tàu vẽ thành bảng phù ấn Tỳ lô hoa tạng. Sau đó tiếp tục vẽ thêm các linh phù bổn môn…
Đợi đến 11 giờ đêm, tôi bắt đầu khai đàn tác pháp. Cô Hai đứng ngoài hộ đàn. Không khí lúc này yên tĩnh lạ thường, không một tiếng động, dù là tiếng gió. Tôi có cảm giác không gian như đặc quánh lại, tay chân bỗng trở nên nặng nề. Tôi đốt phù và đọc chú gọi hồn. Trong cái yên lặng khác thường của gian phòng tranh tối tranh sáng, tôi nghe tiếng đọc của mình lanh lảnh: “…ơi…ơi… ma chi la …a…ma chi li… pon on ti pê sa…a… sắc sa quắt…ơi.. ơi…i…”Ngọn đèn cầy bên phải bàn thờ bỗng chao đảo liên hồi như có gió thổi, không khí bổng dưng lạnh một cách kỳ lạ. Hai lỗ tai tôi lùng bùng vang lên những tiếng vo vo như có hàng vạn con ve đang cất tiếng kêu. Biết là hồn cô Châu đang hiện về, theo thói quen tôi kết thủ ấn làm thành bị giáp kim cương hộ thân. Và rồi… trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa cửa buồng của cô Châu với bàn thờ vong, tôi thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo. Thoáng nghe tiếng cô Hai Xa Cảng “ư” lên một rồi tắt lịm, dường như cô đang lấy tay bịt miệng mình lại. Bóng hình rõ dần, rõ dần… đúng là hình ảnh tôi từng thấy trong mơ, cũng chiếc áo bà ba bông màu tím hoa cà trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn cầy, đã trở màu đen sẫm. Cũng dáng vẻ thanh nhã với cái bụng to hơn bình thường một chút, cũng khuôn mặt khả ái và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sau một thoáng xúc động, tôi vừa giữ ấn vừa hỏi:
- Cô có phải là cô Châu không?
Thoáng thấy chiếc bóng gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp:
- Cô có biết tự vẫn huỷ hoại mình và thai nhi là mang tội với đất trời hay không ?
Vẫn là một cái gật đầu, nước mắt tiếp tục lăn dài trên gương mặt cô.
Cố nén tiếng thở dài, tôi nói:
- Cô biết mang tội mà vẫn làm chắc chắn là có nỗi khổ tâm. Nhưng cô có biết rằng ở lại thế gian phá quấy mọi người là chuốc thêm tội hay không? Người sống có con đường của người sống, kẻ chết có nẻo riêng của kẻ chết. Cô lẫn lộn âm dương, không lo an phận chờ ngày đứa trẻ ra đời thì chắc chắn sớm muộn gì mộ của cô cũng bị lôi đả cho mà xem…
Vẫn là tiếng nức nở. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao cô Châu không thể nói với tôi một lời nào. Tôi lại cất lời khuyên nhủ:
- Cô Châu à, tôi và cô gặp nhau là do duyên. Tôi chỉ mong giải toả uất ức trong lòng cô để cô yên lòng ra đi. Tôi không đủ sức siêu độ cho cô nhưng tôi sẽ nhờ hạnh nguyện ba đời chư Phật và oai linh Thầy Tổ để đưa mẹ con cô về núi tu hành.
Cô Châu khẽ cúi đầu như ngẫm nghĩ. Thật lòng lúc bấy giờ nếu cô Châu từ chối tôi cũng không biết phải xử trí cô ra sao nữa…May cho tôi, cô Châu ngẩng lên nhìn tôi như tỏ vẻ ưng thuận. Rồi cô đưa tay chỉ về phía bàn thờ Thiên nhãn và Cửu huyền như muốn nói gì đó. Tôi biết cô không dám đến gần bàn thờ Thiên nhãn.
- Cô muốn tôi làm gì ở đó?
Vong linh của cô Châu vẫn chỉ về phía bàn thờ. Nhìn theo tay chỉ của cô, hình như là trong tủ thờ có cái gì đó. Quay sang cô Hai Xa cảng định nhờ cô giúp thì thấy cô chắp tay che kín mặt, miệng lầm thầm niệm liên tục không dám mở mắt. Tôi đành đứng dậy đi về phía tủ thờ. Bây giờ nghĩ lại không hiểu tại sao mình làm được chuyện đó. Vì muốn đến tủ thờ phải đi ngang qua chỗ hồn ma cô Châu đang đứng, chỉ nghĩ đến thôi đã ớn lạnh rồi. Vậy mà lúc ấy tôi bước thản nhiên, lòng không có chút gì lo sợ. Vẫn nắm thủ ấn trong tay áo, tôi tiến đến tủ thờ. Bàn thờ gia tiên được làm bằng gỗ cẩm lai cẩn xà cừ. Hai bên hông tủ là hai cánh cánh cửa nhỏ. Ở dưới quê thường cất chén bát, ly tách quý giá vào bên trong tủ,mỗi khi có đám tiệc mới lấy ra xài một lần.
Tôi bước đến mở tủ ra, bên trong tối om. Với tay lấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ Cửu huyền xuống rọi vào, một mùi ẩm mốc xộc ra khiến tôi muốn nhảy mũi. Bên trong là từng chồng chén đĩa được gói lại cẩn thận bằng giấy báo, bụi bám đầy bên ngoài chứng tỏ lâu lắm không ai sử dụng. Không thấy gì, tôi lại quay ra nhìn hồn ma của cô Châu. Cô vẫn đứng xa xa chỉ về phía tủ thờ tôi đang mở, khuôn mặt mờ ảo của cô có vẻ khẩn thiết hơn. Tôi lại phải quay vào soi đèn tìm tiếp. Lần này, tôi đưa tay giở từng chồng chén đĩa lên để tìm. Bất chợt, tôi phát hiện một túi ni-lông được gói cẩn thận nhét ở dưới đống dĩa. Cầm túi
ni – lông ra, tôi xoay lại định hỏi cô Châu thì … cô biến mất tự lúc nào.
Quay trở lại đàn, tôi ngồi xếp bằng xuống và mở túi ni-lông ra. Cái túi được gói cẩn thận mấy lớp. Gỡ đến lớp trong cùng, một xấp thư và hai tấm ảnh rơi ra. Trong ảnh là cô Châu đang tươi cười bên cạnh một thanh niên khá đẹp trai. Cả hai đang đứng bên một hòn giả sơn khá lớn. Tôi chợt hiểu… Cô Châu ơi, chữ tình đối với cô lớn đến như vậy sao? Vì một người đàn ông mà cô nỡ bỏ cả mạng sống của mình, cũng vì những món vật còn để lại này mà cô không chịu ra đi… Thế gian trầm luân cũng bởi thế này … Thôi, tôi sẽ hoàn thành tâm nguyện cho cô, mong cô an lòng mà về núi…
Tôi bắt đầu tác pháp, kết thủ ấn định tâm nhập vào Tỳ Lô hoa tạng thế giới, tập trung trì niệm Quang Minh cam lộ chơn ngôn hồi hướng cho vong hồn mẹ con cô Châu được thoát khỏi ma chướng oán nghiệp, giải toả oan kết thế gian. Cuối cùng, tôi đốt linh phù bổn môn, nhờ oai linh thầy tổ đưa cô về núi. Những vật thực cúng dường, phù ấn, vàng bạc … và cả những bức thư, tấm ảnh của cô Châu đều được hoá cẩn thận. Thôi, sơn quy sơ, thổ quy thổ. Những gì của quá khứ xin trả về cho cát bụi, chết đi rồi có mang theo được gì đâu. Còn chút ân tình cũng nên trả lại thế gian, cầu chúc cô về núi tu hành tinh tấn…
Pháp sự hoàn mãn cũng là lúc chuông đồng hồ thong thả điểm ba tiếng. Cô Hai và tôi lặng lẽ thu dọn và ra bến chờ đứa cháu cô Hai lấy xuồng. Đến bây giờ bác Tư gái mới xuất hiện, tôi định nói với bác vài lời nhưng lại thôi. Nói gì bây giờ đây, dù gì đi chăng nữa, cô Châu cũng đã đi rồi, tâm nguyện của người chết và mong muốn của người sống đã được thoả mãn, có nói cũng vô ích mà thôi. Tôi lặng lẽ ra bến ngồi chờ, chiếc xuồng máy đuôi tôm đang tư từ trờ tới.
Chiếc xuồng nổ máy chạy về chợ Mộc Hoá. Trên bến, bác Tư gái còn đứng nhìn theo. Bóng của bác mất hút trong màn đêm buổi sớm. Tôi ngồi ở mũi xuồng, từng cơn gió lạnh trên sông thổi vào mát rượi. Một ngày mới lại bắt đầu, một chuyến hành trình mới của tôi lại tiếp tục. Trên những nẻo đường giong ruổi, tôi lại chất thêm vào hành trang ký ức của mình một kỉ niệm siêu linh… ngẩng lên nhìn bầu trời chi chít những ngôi sao, tôi có cảm giác như linh hồn của cô Châu đang là một trong những vì sao ấy…
(Còn nữa)
CHƯƠNG III:
Tiếng cô Hai kéo tôi trở về với thực tại:
- Cậu Hai nghĩ gì mà thần người ra vậy?
- À, không,tôi chỉ nhớ lại chuyện cũ thôi mà!
- Cậu Hai à, từ sau chuyện xảy ra ở nhà cậu, tui thấy cậu hay mơ màng lắm nghe…
Tôi đánh trống lảng:
- Sao cô lại có mặt ở đây vậy?
- Ủa, cậu quên tui quê ở đây sao?
- Ờ há, tôi không để ý …
- Còn cậu, sao cậu lại ở đây?
- Tôi đưa khách đi miền Tây, ghé Uỷ Ban nghỉ một đêm, mai đi tiếp.
- Vậy là tốt quá rồi. Cậu ghé đây rõ ràng là do ơn trên xoay chuyển. Tui không còn lo nữa.
- Nhưng mà cô lo chuyện gì?
- Cậu hổng nhớ tháng trước tui ghé nhà cậu nhờ cậu về Mộc Hoá một chuyến giúp gia đình tui à?
- Lúc đó rối bời, tôi đâu có để ý kỹ. Thôi, cô kể lại chi tiết giùm tôi đi.
- Chuyện là vầy…
…Châu là con gái bác Tư Xê, gọi cô Hai Xa Cảng là cô họ. Năm nay Châu vừa tròn 19 tuổi, cái tuổi xuân thì vừa đủ độ chín mùi để làm gục ngã bao chàng trai trong vùng. Chẳng những thế, Châu còn hát hay, cấy giỏi. Mỗi khi bà con cấy vần công, ai nấy bị Châu bỏ xa. Có khi cô còn cấy bao nhốt mấy chàng vào trong đám mạ phải la oai oái. Nhiều nhà có con trai mới lớn đều ngắm nghía và tính chuyện làm sui với bác Tư. Bác Tư lấy chuyện này làm điều thích thú. Mỗi khi đi đám tiệc ở đâu, nhắc đến Châu là y như rằng bác khoe hết lời khiến nhiều người cứ tấm tắc hít hà…Thật ra , bác cũng đang âm thầm kiếm một chàng rễ vừa ý.
Vậy mà, đùng một cái cô Châu có bầu. Lúc đầu thấy cô nôn oẹ, biếng ăn, ở nhà cứ tưởng cô làm nhiều sinh bệnh. Nhưng rồi những triệu chứng của một người ở cử càng lúc càng lộ rõ, nhất là cái eo vốn thon thả của cố cứ tròn dần ra một cách công khai khiến mọi người tá hoả. Bà con lối xóm xì xầm bàn tán, rủ nhau đoán già đoán non về tác giả cái bào thai kia. Trước đây, mọi người ca ngợi Châu bao nhiêu thì bây giờ cái tiếng thị phi cũng tương xứng bấy nhiêu. Vợ chồng bác Tư thì khỏi nói. Bác gái lúc nào cũng rền rĩ than trời trách đất, rồi trách bản thân vô phước có một đứa con gái hư thân mất nết như Châu. Bác Tư Xê thì ngày nào cũng tra hỏi cật vấn rồi mắng chửi đánh đập. Có hôm ra đồng, mặt mày Châu sưng tím, tay chân lằn ngang lằn dọc vì trận đòn dữ tợn của bác Tư. Mọi người càng dè bĩu, bác Tư càng đánh chửi thì Châu càng im lặng. Cái im lặng thật đáng sợ ẩn chứa một sự phản kháng ngầm…
Bất ngờ lúc giữa trưa, làng xóm nghe tiếng gào khóc của bác Tư gái. Mọi người ùa sang thì thấy cô Châu cả người tím tái, mắt trợn dọc, bọt mép sùi ra hai bên ướt cả chiếc áo bà ba màu tím hoa cà, ướt cả chiếc chiếu cô nằm. Người cô nẩy lên từng cơn như bị kinh phong. Bà con xúm nhau lại cạo gió, cắt lưng, giật tóc mai nhưng cô chỉ còn nảy người lên vài cái rồi rủ xuống tắt thở. Cô chết nhưng đôi mắt vẫn mở to, nhìn vào hư không như oán trách điều gì. Dưới chân giường vẫn còn chai thuốc xịt rầy đã vơi hơn phân nửa.
Vậy là mọi người lại bắt tay vào lo hậu sự cho cô Châu. Đôi mắt cô vẫn mở to không nhắm, người nhà làm đủ cách nhưng đôi mắt vẫn cứ mở trừng trừng khiến ai nấy rởn óc không dám nhìn lâu. Cuối cùng, mấy vị chức sắc trong Cao Đài quyết định lấy chiếc khăn đỏ phủ lên đôi mắt cô rồi làm nghi thức an táng. Vì cô Châu chết lúc đang có mang nên bên mộ của cô Châu, người ta trồng một cây chuối sứ, chừng nào chuối trổ buồng thì đứa nhỏ ma cũng được chào đời.
Ba ngày sau, chuyện lạ bắt đầu xảy ra…
Ông Tám thợ rèn đi ăn đám giỗ bên kia sông nên về muộn hơn thường ngày. Trời chạng vạng ông mới khật khà khật khưỡng qua đến đám ruộng của bác Tư Xê. Một cơn gió lạnh thổi qua làm ông rùng mình. Cái “bầu tâm sự” của ông cần có chỗ để trút. Ngó quanh quất không thấy ai, ông vén quần tè luôn trên bờ ruộng. Chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng :
- Ông Tám đi đâu về tối quá vậy…?
Tưởng gặp người quen, ông Tám lập tức ngưng ngay công việc “tưới ruộng”. Vừa xả ống quần xuống ông vừa vội trả lời:
- Ừ, tao đi đám giỗ về …mà đứa nào hỏi đó bây?
Nhưng, khi quay người lại, ông chẳng thấy bóng dáng người nào. Tưởng uống rượu nhiều quá nên mơ hồ, ông Tám lắc lắc cái đầu như xua tan cơn say, tiếp tục giải quyết chuyện của mình. Vừa mới kéo ống quần lên, ông nghe tiếng kêu thật lớn:
- Ông Tám…
Lần này không thể lầm lẫn được, ông Tám quay phắt lại nhìn. Trong không gian nhá nhem tối, ông chợt phát hiện mình đang đứng gần nấm mộ của cô Châu. Mồ hôi lạnh toát ra ướt áo, ông Tám tỉnh hẳn rượu vội co giò chạy một mạch về nhà, mặt mày tái mét, nói chẳng ra lời. Hôm sau ông ngã bệnh…
Trường hợp ông Tám không phải là duy nhất. Thím Năm Hoài, rồi cô Hai Lành, thằng Rạch con ông Ba Thớm đầu xóm cũng thấy cô Châu hiển linh. Thằng Rạch kể, chiều hôm đó nó lùa trâu về nhà, lúc ấy trời chưa tối hẳn, đi ngang mộ của Châu, nó thấy cô đứng sẵn tự lúc nào. Lúc đầu nó còn tưởng cô nào ở trong vùng đang hẹn hò với bồ, không dè đến gần nó thấy cô Châu đang cười nhìn nó. Vẫn là chiếc áo bà ba bông tím hoa cà mà ở nhà mặc lúc liệm xác cô, vẫn nụ cười duyên quen thuộc với bà con lối xóm. Cô lấy tay ngoắc. Hồn vía lên mây, thằng Rạch cắm đầu chạy, vừa chạy nó vừa la bài hãi: “ Trời ơi!…Ma…ma…a…”Về đến nhà nó ngã vật ra sùi bọt mép, lên cơn co giật. Báo hại cả xóm gần cả đêm không ngủ với nó. Người lớn vừa kiếm thầy cắt lễ cho thằng Rạch vừa cử mấy tay thanh niên chạy ra ruộng tìm trâu.
Trong khi cả xóm còn đang kinh hoàng thì sau lễ cúng cửu đầu tiên (đạo Cao đài lấy chín ngày để cúng vong nên gọi là cửu, khác với đạo Phật cúng thất sau khi người chết được bảy ngày ) nhà cô Châu bắt đầu có chuyện. Buổi tối, cả nhà nghe tiếng lục đục trong buồng ngủ của cô. Tưởng là chuột nên bác Tư chỉ vỗ vỗ vào vách mấy cái rồi ngủ tiếp. Đến tối hôm sau thì tiếng động càng lớn hơn như ai đó đang lục lọi đồ đạc trong buồng. Cất tiếng hỏi không nghe ai trả lời, bác Tư bưng đèn vào trong xem thử. Tất cả bình thường, không có vẻ gì là xáo trộn. Đêm tiếp theo nữa, cả nhà không ai ngủ được vì tiếng khóc rấm rức từ trong buồng văng vẳng vang ra. Nghe kỹ thì đó là tiếng khóc quen thuộc của cô Châu mỗi khi bị bác Tư đánh mắng. Ở nhà rởn da gà không ai dám ho he. Riêng bác Tư trai vốn có vai vế trong đạo nên còn bình tĩnh, bác hét lớn át cả tiếng khóc:
- Bây sống làm nhục nhã cha mẹ, giờ chết rồi tính làm ma để báo hại gia đình hải không?
Tiếng khóc chấm dứt. Cả nhà yên giấc đến sáng.
Nhưng rồi những đêm sau mọi thứ vẫn tiếp diễn như cũ. Lần này càng lộng hơn, người nhà thấy cô Châu hiện hồn rành rành. Từ trong buồng, cô bước ra quanh quẩn gần tủ thờ rồi khóc lóc. Có khi đang ngủ, vợ chồng bác Tư giật mình thức giấc nghe tiếng của Châu kêu gọi thảm thương:
- Má …ơi! … Tía … ơi…ơi…!
Mở mắt ra nhìn, hai ông bà thấy cô xoã tóc đứng ngay cạnh giường ngủ của mình. Ở dưới quê lúc bấy giờ chưa có đèn điện, nhà nào sang lắm mới xài điện bình. Bình gần cạn phải đi ghe ra ngoài chợ để sạc lại. Nhà bác Tư cũng chỉ xài đèn dầu, trong ánh đèn dầu tù mù leo lét, bóng cô Châu lúc ẩn lúc hiện với mái tóc xoã dài với tiếng khóc nức nở làm mọi người sợ đến mất vía.
Ban đầu là bác gái bỏ buồng trong chạy ra bộ ván ngủ với bác trai, rồi sau đó cả nhà dọn giường qua gian bếp ngủ chung với nhau. Cuối cùng cả nhà bỏ sang nhà bác Ba Xàng ngủ nhờ. Thế là căn nhà của bác Tư … ban ngày dành cho người, còn ban đêm … để lại cho cô Châu về ở.
xXx
… Dường như kể nhiều hơi mệt, cô Hai Xa Cảng dừng lại hớp một ngụm cà phê đá.
- Cô Hai à, tính đến bữa nay thì cô Châu chết được mấy ngày rồi cô?
- Đến ngày mai là vô cửu thứ bảy rồi đó cậu. Nói thiệt với cậu, từ hôm cậu từ chối không nhận, ở nhà đã làm hết cách rồi. Mời bổn đạo đến hộ niệm, mời thầy đến cúng giải vong, mời đồng bóng về cúng bà… hễ ai bày gì là anh chị Tư tui làm nấy nhưng coi bộ hổng ai làm được gì cả cậu Hai à. Cực chẳng đã anh chị Tư tui nói quá nên tui mới về cúng thử xem sao. Biết đâu nó thương tui thiệt lòng cầu nguyện cho nó mà chịu đi đầu thai thì phước ba đời luôn đó cậu.
- Cô về được mấy hôm rồi.
- Mấy đâu mà mấy. Tui đi chuyến xe đầu hôm nay, về đến đây mới có 10 giờ hà. Vậy mà có chút thời gian rảnh đã nghe không biết bao nhiêu chuyện về con Châu nữa.
- Còn thêm chuyện gì nữa?
- Đó, mới hôm qua thôi. Buổi chiều, anh Bảy Niễng chạy hào hễn từ ngoài ruộng về. Vô tới nhà ổng la um lên : “Con Châu nó rượt tui, con Châu nó rượt tui”. Gặp chị Bảy nghễng ngãng còn hỏi lại: “ Trâu làm gì mà rượt ông chứ?” thiệt là cười ra nước mắt luôn. Đến khuya hôm nay, bạn hàng của chị Tư đi ghe qua trước nhà, tính ghé lên lấy đồ. Dè đâu vừa ghé vô thấy nó đứng ngời ngời ngay bến, ai nấy bò càng luôn vậy đó.
Tôi cắt ngang câu chuyện:
- Bây giờ cô định làm sao?
- Thì làm sao nữa, tui định tối nay tụng kinh cầu siêu cho nó. Thấy còn thiếu vài món nên vội chạy ra chợ mua thêm cho đủ.
Cô Hai đổi giọng:
- Cậu Hai ơi, gặp cậu ở đây rồi, thôi cậu giúp tui chuyến này đi nghe cậu.
Tôi không trả lời, quay ra ngó mông lung ngoài sông lớn. Phải chăng tôi gặp cô Hai ở đây là một sự tình cờ? Còn giấc mộng cách đây gần tháng, phải chăng cũng là trùng hợp? Câu chuyện kể của cô Hai làm tôi xúc động. Tự nhiên tôi thấy thương cảm cho số phận của một con người, sống bị người ta chê cười, chết lại bị người ta sợ hãi. Họ sợ hãi điều gì kia chứ? Sợ ma ư? Ai chết rồi mà chẳng thành ma? Ma là người đã chết, người là ma lúc còn sống, có gì khác nhau đâu. Cái kiếp sinh tử luân hồi, ai mà chẳng có một lần phải trải qua. Có điều, người thì ra đi nhẹ nhàng, kẻ thì quyến luyến nấn ná. Chẳng qua là vì họ chẳng cam lòng đó thôi, hoặc giả họ còn điều tâm nguyện nào đó chưa giải quyết nên không chịu nhắm mắt đi xuôi. Cái tâm tham lam, sân hận, si mê theo họ vào cả trong cõi u minh… Biết bao giờ mới giải thoát đây.
- Cậu Hai ơi, cậu giúp giùm tui đi cậu!
Tôi sực tỉnh, quay sang nói với cô Hai:
- Được rồi, cô ghé tiệm thuốc Bắc mua giùm tôi một số vị thuốc sau: Châu sa – 5 chỉ, Thần Sa – 5 chỉ, Son Tàu – 5 chỉ, A Nguỳ – 1 lượng…
Rồi cô ghé vô chợ mua luôn nhang đèn, giấy áo, nãi chuối sứ…ít giấy vàng…
Cô Hai mừng quýnh:
- Giấy vàng và nhang đèn tui mua rồi nè, còn mấy cái kia có ngay thôi. Cậu chờ tui chút nghe.
Nói xong, cô Hai đi nhanh ra khỏi quán. Cái dáng cao gầy của cô tất tả giữa dòng người đang từ dưới bến đi lên.
Nhà bác Tư cách chợ Mộc Hoá khoảng 9 cây số đường sông. Chúng tôi đi ghe máy về tới nhà thì đồng hồ đã chỉ 5 giờ chiều. Thấy cô Hai từ dưới bến đi lên, một người phụ nữ trạc sáu mươi tuổi chạy ra đón lấy giỏ đồ trên tay cô Hai vừa nói:
- Trời chiều rồi mà cô chưa về làm tui lo quá. Sao mà lâu quá vậy?
- Gặp được quới nhơn nên về muộn đó mà – quay sang chỉ tôi, cô Hai giới thiệu – Cậu Hai Dũng, người mà tui kể với chị hồi tháng rồi đó. Hôm nay ra chợ mua đồ, may sao gặp cậu ấy đang ghé huyện làm công chuyện. Vậy là tui đưa cẩu về đây luôn. Còn đây là chị Tư của tui đó cậu.
Bác Tư gái có vẻ mừng rỡ:
- Mời cậu vô nhà, hôm nay mùng Một ở nhà có mấy mẹ con tui. Ổng mắc việc ngoài Thánh thất chắc không về được.
Bữa cơm chiều được dọn ra đạm bạc. Tàu hủ chiên vàng, dĩa rau mốp làm chua chấm chao và tô canh canh rau dền con ăn với cơm gạo mới. Tôi làm luôn ba chén đầy mà vẫn còn muốn ăn thêm, trong đầu chợt liên tưởng đến bữa tiệc ban trưa – nặng nề và tanh tưởi…
Ăn xong, trời cũng bắt đầu chạng vạng. Thoắt cái cả nhà bác Tư biến đi đâu mất, chỉ còn tôi và cô Hai loay hoay chuẩn bị thời kinh.
Khi theo chân cô Hai đi lên gian nhà trên, nơi đó thờ Thiên nhãn, Cửu huyền, bàn thờ của cô Châu cũng đặt ở đấy.
Vừa bước vào gian trên, tôi nhận ra ngay một cảm giác rất lạ. Gian thờ đóng kín cửa lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy gió ở đâu quyện nhè nhẹ vào cổ chân, sương sống tôi có một luồng khí lạnh chạy lên chạy xuống. Tưởng linh phù chữ Phật an ở đảnh và tâm ngực xong, tôi tiếp tục bước vào trong. Đến trước bàn thờ cô Châu, tôi bàng hoàng giật mình đánh thót một cái… chắc mọi người đã đoán ra điều gì rồi. Bức di ảnh của cô Châu trên bàn thờ giống với cô gái trong giấc mộng tháng rồi của tôi như đúc. Nói cách khác, cô gái mà tôi thấy trong lúc mơ màng chính là cô Châu, nhân vật trong tấm ảnh thờ đang đưa mắt nhìn tôi với nụ cười buồn bã…
Thoáng chút bàng hoàng tôi vội trấn tĩnh và bắt đầu thời kinh tụng. Tiếng chuông mõ hoà vào trong ánh sáng lung linh của hai ngọn đèn cầy, trong mùi nhang trầm phảng phất tạo nên bầu không khí liêu trai huyền ảo nhưng ấm cúng. Tôi và cô Hai hoà niệm bài chú Đại Bi:
“ … Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, nam mô a rị da bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da…”
Tiếng chuông điểm vào cảnh tỉnh, tiếng mõ đều đặn dằn tâm, tôi để lòng mình duyên theo bài chú, tâm thức như thấy hình tướng đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm đang ngự giữa hư không, ánh hào quang phóng ra tiếp dẫn vong hồn… từng luồng điện chạy dọc theo sống lưng , chạy ra hai tay từng đợt từng đợt làm tôi gai cả người. Tôi có cảm giác như vong hồn cô Châu đang hiện về trong tiếng chú.
“ Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ tát… Phật thuyết A Di Đà kinh. Như thị ngã văn…”
Bổn kinh Di Đà hầu như tôi thuộc nằm lòng. Từng lời từng lời trong kinh như mở ra cả một thế giới hư không với cõi Tây phương trang nghiêm Tịnh độ. Bốn mươi tám lời thệ nguyện của đức Phật Di Đà dẫn dắt chúng sanh về Phật quốc, cầu cho vong hồn của cô Châu thức tỉnh bến mê mà quay về bờ giác. Về đi thôi, về đi cô Châu ơi, luyến tiếc làm chi một chút hồng trần, hãy duyên theo lời hộ niệm mà thức tỉnh, hãy nương theo ánh hào quang của chư Phật ba đời mà thoát khỏi biển khổ này. Tôi tụng cho cô cũng như tụng cho thằng em đã mất của tôi. Nó và cô đã lìa bỏ cuộc đời, vậy đừng nên quyến luyến làm gì thêm khổ não.
… Xong thời kinh Phật, tôi nhờ cô Hai đem sẵn châu sa thần sa hoà trộn với son tàu thành một thứ mực đỏ sẫm. Chắp tay kết ấn trì tụng Quang Minh cam lộ chơn ngôn 21 biến, tôi dùng son tàu vẽ thành bảng phù ấn Tỳ lô hoa tạng. Sau đó tiếp tục vẽ thêm các linh phù bổn môn…
Đợi đến 11 giờ đêm, tôi bắt đầu khai đàn tác pháp. Cô Hai đứng ngoài hộ đàn. Không khí lúc này yên tĩnh lạ thường, không một tiếng động, dù là tiếng gió. Tôi có cảm giác không gian như đặc quánh lại, tay chân bỗng trở nên nặng nề. Tôi đốt phù và đọc chú gọi hồn. Trong cái yên lặng khác thường của gian phòng tranh tối tranh sáng, tôi nghe tiếng đọc của mình lanh lảnh: “…ơi…ơi… ma chi la …a…ma chi li… pon on ti pê sa…a… sắc sa quắt…ơi.. ơi…i…”Ngọn đèn cầy bên phải bàn thờ bỗng chao đảo liên hồi như có gió thổi, không khí bổng dưng lạnh một cách kỳ lạ. Hai lỗ tai tôi lùng bùng vang lên những tiếng vo vo như có hàng vạn con ve đang cất tiếng kêu. Biết là hồn cô Châu đang hiện về, theo thói quen tôi kết thủ ấn làm thành bị giáp kim cương hộ thân. Và rồi… trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa cửa buồng của cô Châu với bàn thờ vong, tôi thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo. Thoáng nghe tiếng cô Hai Xa Cảng “ư” lên một rồi tắt lịm, dường như cô đang lấy tay bịt miệng mình lại. Bóng hình rõ dần, rõ dần… đúng là hình ảnh tôi từng thấy trong mơ, cũng chiếc áo bà ba bông màu tím hoa cà trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn cầy, đã trở màu đen sẫm. Cũng dáng vẻ thanh nhã với cái bụng to hơn bình thường một chút, cũng khuôn mặt khả ái và những giọt nước mắt lăn dài trên má. Sau một thoáng xúc động, tôi vừa giữ ấn vừa hỏi:
- Cô có phải là cô Châu không?
Thoáng thấy chiếc bóng gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp:
- Cô có biết tự vẫn huỷ hoại mình và thai nhi là mang tội với đất trời hay không ?
Vẫn là một cái gật đầu, nước mắt tiếp tục lăn dài trên gương mặt cô.
Cố nén tiếng thở dài, tôi nói:
- Cô biết mang tội mà vẫn làm chắc chắn là có nỗi khổ tâm. Nhưng cô có biết rằng ở lại thế gian phá quấy mọi người là chuốc thêm tội hay không? Người sống có con đường của người sống, kẻ chết có nẻo riêng của kẻ chết. Cô lẫn lộn âm dương, không lo an phận chờ ngày đứa trẻ ra đời thì chắc chắn sớm muộn gì mộ của cô cũng bị lôi đả cho mà xem…
Vẫn là tiếng nức nở. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao cô Châu không thể nói với tôi một lời nào. Tôi lại cất lời khuyên nhủ:
- Cô Châu à, tôi và cô gặp nhau là do duyên. Tôi chỉ mong giải toả uất ức trong lòng cô để cô yên lòng ra đi. Tôi không đủ sức siêu độ cho cô nhưng tôi sẽ nhờ hạnh nguyện ba đời chư Phật và oai linh Thầy Tổ để đưa mẹ con cô về núi tu hành.
Cô Châu khẽ cúi đầu như ngẫm nghĩ. Thật lòng lúc bấy giờ nếu cô Châu từ chối tôi cũng không biết phải xử trí cô ra sao nữa…May cho tôi, cô Châu ngẩng lên nhìn tôi như tỏ vẻ ưng thuận. Rồi cô đưa tay chỉ về phía bàn thờ Thiên nhãn và Cửu huyền như muốn nói gì đó. Tôi biết cô không dám đến gần bàn thờ Thiên nhãn.
- Cô muốn tôi làm gì ở đó?
Vong linh của cô Châu vẫn chỉ về phía bàn thờ. Nhìn theo tay chỉ của cô, hình như là trong tủ thờ có cái gì đó. Quay sang cô Hai Xa cảng định nhờ cô giúp thì thấy cô chắp tay che kín mặt, miệng lầm thầm niệm liên tục không dám mở mắt. Tôi đành đứng dậy đi về phía tủ thờ. Bây giờ nghĩ lại không hiểu tại sao mình làm được chuyện đó. Vì muốn đến tủ thờ phải đi ngang qua chỗ hồn ma cô Châu đang đứng, chỉ nghĩ đến thôi đã ớn lạnh rồi. Vậy mà lúc ấy tôi bước thản nhiên, lòng không có chút gì lo sợ. Vẫn nắm thủ ấn trong tay áo, tôi tiến đến tủ thờ. Bàn thờ gia tiên được làm bằng gỗ cẩm lai cẩn xà cừ. Hai bên hông tủ là hai cánh cánh cửa nhỏ. Ở dưới quê thường cất chén bát, ly tách quý giá vào bên trong tủ,mỗi khi có đám tiệc mới lấy ra xài một lần.
Tôi bước đến mở tủ ra, bên trong tối om. Với tay lấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ Cửu huyền xuống rọi vào, một mùi ẩm mốc xộc ra khiến tôi muốn nhảy mũi. Bên trong là từng chồng chén đĩa được gói lại cẩn thận bằng giấy báo, bụi bám đầy bên ngoài chứng tỏ lâu lắm không ai sử dụng. Không thấy gì, tôi lại quay ra nhìn hồn ma của cô Châu. Cô vẫn đứng xa xa chỉ về phía tủ thờ tôi đang mở, khuôn mặt mờ ảo của cô có vẻ khẩn thiết hơn. Tôi lại phải quay vào soi đèn tìm tiếp. Lần này, tôi đưa tay giở từng chồng chén đĩa lên để tìm. Bất chợt, tôi phát hiện một túi ni-lông được gói cẩn thận nhét ở dưới đống dĩa. Cầm túi
ni – lông ra, tôi xoay lại định hỏi cô Châu thì … cô biến mất tự lúc nào.
Quay trở lại đàn, tôi ngồi xếp bằng xuống và mở túi ni-lông ra. Cái túi được gói cẩn thận mấy lớp. Gỡ đến lớp trong cùng, một xấp thư và hai tấm ảnh rơi ra. Trong ảnh là cô Châu đang tươi cười bên cạnh một thanh niên khá đẹp trai. Cả hai đang đứng bên một hòn giả sơn khá lớn. Tôi chợt hiểu… Cô Châu ơi, chữ tình đối với cô lớn đến như vậy sao? Vì một người đàn ông mà cô nỡ bỏ cả mạng sống của mình, cũng vì những món vật còn để lại này mà cô không chịu ra đi… Thế gian trầm luân cũng bởi thế này … Thôi, tôi sẽ hoàn thành tâm nguyện cho cô, mong cô an lòng mà về núi…
Tôi bắt đầu tác pháp, kết thủ ấn định tâm nhập vào Tỳ Lô hoa tạng thế giới, tập trung trì niệm Quang Minh cam lộ chơn ngôn hồi hướng cho vong hồn mẹ con cô Châu được thoát khỏi ma chướng oán nghiệp, giải toả oan kết thế gian. Cuối cùng, tôi đốt linh phù bổn môn, nhờ oai linh thầy tổ đưa cô về núi. Những vật thực cúng dường, phù ấn, vàng bạc … và cả những bức thư, tấm ảnh của cô Châu đều được hoá cẩn thận. Thôi, sơn quy sơ, thổ quy thổ. Những gì của quá khứ xin trả về cho cát bụi, chết đi rồi có mang theo được gì đâu. Còn chút ân tình cũng nên trả lại thế gian, cầu chúc cô về núi tu hành tinh tấn…
Pháp sự hoàn mãn cũng là lúc chuông đồng hồ thong thả điểm ba tiếng. Cô Hai và tôi lặng lẽ thu dọn và ra bến chờ đứa cháu cô Hai lấy xuồng. Đến bây giờ bác Tư gái mới xuất hiện, tôi định nói với bác vài lời nhưng lại thôi. Nói gì bây giờ đây, dù gì đi chăng nữa, cô Châu cũng đã đi rồi, tâm nguyện của người chết và mong muốn của người sống đã được thoả mãn, có nói cũng vô ích mà thôi. Tôi lặng lẽ ra bến ngồi chờ, chiếc xuồng máy đuôi tôm đang tư từ trờ tới.
Chiếc xuồng nổ máy chạy về chợ Mộc Hoá. Trên bến, bác Tư gái còn đứng nhìn theo. Bóng của bác mất hút trong màn đêm buổi sớm. Tôi ngồi ở mũi xuồng, từng cơn gió lạnh trên sông thổi vào mát rượi. Một ngày mới lại bắt đầu, một chuyến hành trình mới của tôi lại tiếp tục. Trên những nẻo đường giong ruổi, tôi lại chất thêm vào hành trang ký ức của mình một kỉ niệm siêu linh… ngẩng lên nhìn bầu trời chi chít những ngôi sao, tôi có cảm giác như linh hồn của cô Châu đang là một trong những vì sao ấy…
(Còn nữa)
0 comments:
Post a Comment