THỬ VÉN MÀN HUYỀN THOẠI CHỬ ĐỒNG TỬ – TIÊN DUNG

Leave a Comment
KS. PHAN DUY KHA

Một nàng Mị Nương (tức công chúa) không thích sống gò bó trong cảnh cung vàng điện ngọc, lầu son gác tía ở kinh đô mà lại thích đi du ngoạn để tìm hiểu đất nước. Một chàng trai nghèo đến nỗi không có một mảnh khố che thân, hàng ngày phải ngâm mình dưới nước để đi ăn xin. Một mối nhân duyên kỳ lạ trên bờ lau bãi cát. Một chiếc nón úp lên đầu gậy, qua đêm bỗng biến thành một tòa lâu đài. Cũng tòa lâu đài ấy trong một đêm bỗng bay lên trời, để lại một cái đầm Nhất Dạ… Từ xưa, truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung (CĐT – TD ) vẫn lấp lánh trong tâm khảm chúng ta như một viên ngọc quý. với vẻ đẹp trinh nguyên buổi đầu lập quốc…

Cái gạch nối về địa lý
Địa chỉ của Tiên Dung là kinh đô Phong Châu (Vĩnh Phú). Đây là vùng trung du, hay nói theo danh từ của các nhà nghiên cứu địa – lịch sử là miền “trước núi”, là đỉnh của tam giác châu Bắc bộ, là điểm khởi đầu của cuộc thiên di thứ hai của dân tộc Việt.
Quê hương Chử Đồng Tử là thôn Chử Xá (nay là xã Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội) là vùng trung châu thổ sông Hồng. Nơi Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử là bãi Tự Nhiên bên sông Hồng, nay thuộc huyện Thường Tín (tỉnh Hà Tây). Nơi hai người cùng tòa lâu đài bay lên trời là đầm Nhất Dạ (Một Đêm) – nay thuộc địa phận xã Dạ Trạch, huyện Châu Giang, hợp nhất từ hai huyện Văn Giang, Khoái Châu, thuộc tỉnh Hưng Yên – là miền hạ châu thổ. Việc di chuyển của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phản ánh sự thiên di hay nói đúng hơn, đó chính là hình ảnh cuộc thiên di của người Việt cổ thời Hùng Vương dựng nước để chiếm lĩnh dần vùng châu thổ sông Hồng. Chúng ta biết rằng việc khai phá vùng đồng bằng diễn ra muộn hơn so với vùng đồi núi trung du. Vùng đồng bằng là vùng lầy lội, chua mặn, về mùa mưa hay bị ngập nước. Đó là vùng nửa đất, nửa nước, với liên tiếp những chằm hồ, những vùng đất trũng, đi lại khó khăn. Muốn khai phá đồng bằng phải cải tạo đất, phải đắp đê kè trị thủy, phải nắm được quy luật của lũ lụt, phải biết và lợi dụng được quy luật lên xuống của thủy triều… Để làm được những việc đó, cư dân phải có trình độ kiến thức nhất định. Việc khai phá vùng đồng bằng, vì vậy, diễn ra từng bước, rất dài lâu, chứ không phải ngày một ngày hai. Việc khai phá này lại còn phụ thuộc vào tốc độ bồi lắng của phù sa lấn biển. Ngay như gần đây (vào thế kỷ XIX), hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải (Thái Bình) mới được khai phá bởi công lao của Nguyễn Công Trứ, ta càng thấy được bước đi lâu dài của ông cha ta trong việc mở mang, khai phá vùng đồng bằng.
Truyền thuyết CĐT – TD chính là hình ảnh bước đi đầu tiên trong công cuộc khai phá đó. CĐT – TD đã “mở bến chợ, lập phố xá” (từ dùng của Lĩnh Nam. chích quái), tạo lập nên một giang sơn mới ở miền châu thổ, đến nỗi vua Hùng hiểu nhầm – tưởng con gái và con rể làm phản chống lại triều đình – đã đem quân đi hỏi tội. “Giang sơn” mà CĐT – TD tạo lập ở hai bên bờ sông Hồng thuộc Châu Giang. Kim Thi, Phù Tiên (Hưng Yên) bên tả ngạn, Thường Tín, Phú Xuyên (Hà Tây) bên hữu ngạn. Truyền thuyết CĐT – TD là cái gạch nối địa lý, nối vùng đất tổ Phong Châu với vùng đồng bằng mới được khai phá này.
Gạch nối từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ
Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ phản ánh thời kỳ chế độ mẫu quyền trên đất nước ta (xem thêm TGM 178). Khi vua Hùng lên ngôi, đất nước chuyển sang thời kỳ chế độ phụ quyền. Tuy nhiên, ảnh hưởng của chế độ mẫu quyền vẫn còn rất lớn. Đó là hình ảnh của nàng Tiên Dung – con gái vua Hùng, tự do đi du ngoạn chơi bời khắp nước, thoát ra ngoài sự quản lý của Hùng Vương (tượng trưng cho phụ quyền). Tiên Dung tự chọn chồng cho mình, hoàn toàn ngoài ý muốn của vua cha. Truyền thuyết cũng cho ta thấy được quan hệ tự nhiên, hồn nhiên giữa nam nữ của người Việt cổ. Quan hệ đó được thể hiện trong cảnh Tiên Dung và Chử Đồng Tử ngẫu nhiên trần truồng gặp nhau trên bãi cát ven sông rồi thành vợ thành chồng. Quan hệ đó của người Việt cổ, ta còn gặp trong các di vật khảo cổ như trên nắp thạp đồng Đào Thịnh (có niên đại cách nay khoảng 2.500 – 3.000 năm, tức cùng thời với truyền thuyết này). Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh có tượng 4 cặp nam nữ đang ân ái với nhau: xin đừng nghĩ đây là khiêu dâm, bởi trong tâm thức người Việt cổ, nam nữ gặp nhau, hợp nhau là thành vợ thành chồng và được giải thích là do ý trời, họ không hề có ý niệm “môn đăng hộ đối” hay sự phân biệt về địa vị khác nhau trong xã hội.
Sự xung đột giữa Hùng Vương – Tiên Dung là sự xung đột giữa chế độ phụ quyền đã hình thành và chế độ mẫu quyền đang còn rơi rớt lại. Sự xung đột đó tất yếu sẽ làm tan rã chế độ mẫu quyền. Việc CĐT – TD bay lên trời phản ánh kết cục nêu trên: phụ quyền phải thắng vì đó là tất yếu của lịch sử. Truyền thuyết CĐT – TD, vì vậy, phản ánh một thời kỳ lịch sử rất dài lâu, chứ không phải một thời điểm nào đó. Chính vì thế mà có tài liệu lại chép vào đời Hùng Vương thứ ba lại có tài liệu chép vào đời Hùng Vương thứ 18. Thực ra, cả hai cách chép này đều không sai. Đoạn đầu của truyền thuyết xảy ra vào đầu thời kỳ Hùng Vương, khi ảnh hưởng của chế độ mẫu quyền còn mạnh. Còn đoạn cuối, việc CĐT – TD bay lên trời lại xảy ra vào cuối thời kỳ Hùng Vương, khi chế độ phụ quyền đã được thiết lập vững chắc (đến đời An Dương Vương, chế độ phụ quyền đã hết sức vững chắc: người cha có thể giết con gái, khi người con vô tình làm hỏng việc nước – xem thêm TGM 156). Như vậy, truyền thuyết CĐT – TD phản ánh cả một quá trình, chứ không phải một thời điểm cụ thể. Chúng ta có thể coi nó là cái gạch nối từ chế độ mẫu quyền qua chế độ phụ quyền.
Gạch nối về giao lưu kinh tế
Trong số các truyền thuyết về thời kỳ Hùng Vương dựng nước thì đây là truyền thuyết rất hiếm hoi đề cập một nghề rất mới mẻ trong đời sống kinh tế của cộng đồng người Việt cổ: nghề buôn bán. Buôn bán là một nghề không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội, khi sức sản xuất đã phát triển. Có sản phẩm dư thừa thì phải có lưu thông buôn bán. Mà đã có buôn bán thì phải có vốn và lãi, tức là phải tính đến giá trị của hàng hóa, cơ chế thị trường đã có manh nha từ thời kỳ Hùng Vương (truyền thuyết Mai An Tiêm cũng đề cập việc trao đổi hàng hóa: An Tiêm đem dưa hấu bán đổi lấy gạo nuôi vợ con, nhưng đây là sự trao đổi tự phát chứ chưa có ý thức buôn bán làm giàu!). Truyền thuyết CĐT – TD thì lại khác. Chử Đồng Tử khi chưa lấy Tiên Dung chỉ là một người ăn xin, nghèo khổ đến mức không có nổi một cái khố. Ngày nay, ở đền Dạ Trạch còn thờ một cây gậy và một chiếc nón úp trên gậy đó: không nghi ngờ gì nữa, đấy là biểu tượng của tầng lớp ăn mày. Ở vùng đất này ngày nay còn có tục kiêng không được úp nón lên đầu gậy, thậm chí không được úp nón lên cán cuốc dựng đứng (gợi lên cuộc đời Chử Đồng Tử lúc còn nghèo khó, tức là nhạo báng thần!). Truyền thuyết cũng kể rằng CĐT – TD được vị tiên (hoặc nhà sư?) tặng cho một chiếc nón và một cây gậy có “phép lạ”. Trên đường đi, gặp lúc đêm tối, hai vợ chồng đã dựng gậy, úp nón lên, ngồi tựa vào nhau mà nghỉ. Trong chốc lát, gậy và nón đã hóa thành tòa lâu đài. “Phép lạ” để từ gậy và nón biến thành lâu đài, ở đây không có gì khác ngoài việc buôn bán làm giàu “một vốn mười lời”. Và sự thay đổi đó cũng không phải chỉ trong một đêm mà là cả một quá trình. Truyền thuyết còn cho biết Chử Đồng Tử còn cưỡi thuyền vượt biển đi buôn “phương xa” mà danh từ ngày nay ta gọi là “ngoại thương” (xét tốc độ bồi lắng phù sa của sông Hồng lấn ra biển thì lúc đó, bờ biển cách vùng này không xa là mấy). Không phải ngẫu nhiên mà những vùng “chợ búa đô hội” do CĐT – TD tạo lập nên thì hàng ngàn năm sau này – cũng gần những địa điểm ấy – lại xuất hiện một trung tâm buôn bán với nước ngoài vào loại lớn nhất nước ta thế kỷ XVII – XVIII, đó là vùng Phố Hiến (thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiên). Phải chăng vị trí đó, tiềm năng buôn bán giao lưu đó đã được manh nha từ thời kỳ Hùng Vương? Không phải vô cớ mà truyền thuyết CĐT – TD lại lấy con sông Hồng và các vùng đất hai bên làm bối cảnh.
Như vậy, nếu truyền thuyết Thánh Gióng phản ánh cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kỳ vĩ nhất trong thời kỳ Hùng Vương dựng nước và chỉ cho ta hướng chủ yếu thường có giặc xâm phạm là vùng Trâu Sơn, Lục Đầu, Phả Lại ngày nay thì truyền thuyết CĐT – TD cho ta biết hướng mở mang bờ cõi, làm ăn buôn bán chủ yếu của người Việt cổ là tiến xuống phương Nam, dọc theo sông Hồng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo cổ học ngày nay về quá trình khai phá châu thổ sông Hồng của ông cha ta trong thời dựng nước.
Cũng xin được nói thêm: ở vùng Châu Giang ngày nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về CĐT – TD. Một số truyền thuyết, thần tích ghi thêm rằng: Chử Đồng Tử còn… lấy vợ hai (!) là Tây Cung tiên nữ (có tài liệu ghi thêm: Ngải Hòa tiên nữ). Theo chúng tôi, đây là những truyền thuyết giả mới được chắp nối sau này. Trong thời kỳ phong kiến, khi chế độ đa thê đã thịnh hành, các nhà nho đã thêm thắt vào cho nhân vật Chử Đồng Tử có cái “mác” một người đàn ông lý tưởng của chế độ phong kiến, với quan niệm “làm (tài) trai năm thê bảy thiếp”. Những truyền thuyết mới được “gán” thêm đó không phù hợp với lối sống của cư dân thời kỳ Hùng Vương bởi thời kỳ này chỉ có chế độ hôn nhân một vợ một chồng: Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, Sơn Tinh lấy Ngọc Hoa, người con gái họ Lưu lấy Cao Tân (người anh trong sự tích trầu càu)… Thời kỳ ấy chưa hề có chế độ đa thê. Trong Lĩnh Nam chích quái, cuốn sách xưa nhất đề cập truyền thuyết CĐT – TD, chưa hề có Tây Cung tiên nữ hay Ngải Hòa tiên nữ. Có thể các truyền thuyết giả này mới được thêm vào từ thế kỷ XVI trở về sau.
Truyền thuyết CĐT – TD là một câu chuyện thần tiên nhưng rất hiện thực. Đó là vẻ đẹp lấp lánh của quan niệm tự do tình yêu, tự do hôn nhân; là ý chí vươn lên từ sự nghèo khổ; là sự manh nha về một nghề mới trong nền kinh tế: nghề buôn bán. Đằng sau tất cả những cái đó là cốt lõi của một sự thật: sự hình thành một vùng đất mới, một trung tâm định cư mới trên đất nước ta. Truyền thuyết CĐT – TD, vì vậy, có một vị trí đặc biệt trong kho tàng truyền thuyết của ta. Cùng với truyền thuyết Lạc Long Quân -Âu Cơ (nguồn gốc dân tộc), Sơn Tinh Thủy Tinh (trị thủy), Thánh Gióng (đánh giặc ngoại xâm), truyền thuyết CĐT – TD hợp thành bốn truyền thuyết cố xưa đẹp nhất, có giá trị bậc nhất về thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Nghiên cứu những truyền thuyết này, “đọc” được chúng, giải mã được những ẩn ý mà cha ông xưa đã gửi gắm, chúng ta sẽ tìm lại được diện mạo của tổ tiên, bộ mặt của đất nước ta buổi đầu lập quốc. Đó là trách nhiệm, là tình cảm, là khát vọng của chúng ta!
Theo VSK

0 comments:

Post a Comment

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Tìm thêm