Trong tiếng Việt, từ vựng chỉ hổ thật phong phú. Ngoài hổ (Vào hang hổ; Thả hổ về rừng) còn có cọp (Cọp tha ma bắt), hùm (Vuốt râu hùm; Miệng hùm nọc rắn), dần (Tí, Sửu, Dần, Mão…), khái (Chưa qua truông đã trật lọ cho khái), kễnh (Mèo tha miếng thịt xôn xao, kễnh tha con lợn thì nào thấy chi!)… Hổ ba chân gọi là Ông Ba cụt, hổ ba móng gọi là Ông Ba ngoe, hổ thành tinh gọi là Ông Chằng hay Ông Kẹ.
Tại sao người ta phải gọi hổ bằng nhiều tên khác nhau như vậy? Chắc là vì sợ. Trong buổi đầu khai hoang mở đất, hổ là một trong những lực lượng thiên nhiên hoang dã mà lưu dân phải đối chọi hàng ngày. Hổ không những khoẻ mạnh, hung dữ mà còn tinh khôn, nhanh nhẹn vô cùng, cứ thoắt hiện thoắt biến, rất khó đối phó. Người xưa sợ hổ, tôn thờ hổ, ví hổ như thần, không dám gọi đích danh vì sợ “phạm húy”. Lúc nào cũng gọi hổ bằng “Ông” hoặc “Ngài” một cách kính cẩn: Ông Thầy, Ông Cả, Ông Dần…
Theo truyền thuyết, lúc chúa Nguyễn bị nhà Tây Sơn truy lùng, đuổi giết, gặp hoàn cảnh ngặt nghèo, hết cả lương thực. May nhờ có thịt thú rừng do hổ tha tới tiếp tế mỗi ngày. Về sau, khi lên ngôi vua, Gia Long đã ban lệnh lập miếu thờ tại vùng Mô Xoài thuộc tỉnh Bà Rịa để tạ ơn, dân gian thường gọi là Miếu Ông Hổ. Tục truyền, vua ban lệnh cấm giết hổ. Nếu kẻ nào lỡ tay giết chết hổ thì bị phạt ba mươi trượng. Còn nếu bắt sống thì được thưởng ba mươi quan tiền. Cũng vì lệ này mà hổ còn được gọi là Ông Ba Mươi.
Hổ còn được thờ phượng như Chúa Sơn lâm hay Sơn thần. Hầu hết ở các đình, đền, am, miếu trên khắp nước ta đều có bàn thờ hoặc miếu thờ Thần Hổ, với bài vị trang trọng “Sơn quân chi thần”, “Sơn quân mãnh hổ”, “Sơn lâm chúa xứ”, “Sơn lâm đại tướng quân”...
Ngũ Hổ - chạm gỗ thế kỷ XVIII Ảnh: Bùi Hoài Mai
Trong điện thờ Mẫu, bàn thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía trên có hình tượng đôi Bạch Xà vắt ngang. Theo quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản vùng rừng núi, còn Rắn (Ông Lốt) là thần ở nơi sông nuớc. Hình tuợng Hổ là biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, có thể trừ diệt ma tà, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa đền miếu.
Trong nhiều bàn thờ gia đình xưa thì tầng trên thờ Phật, tầng dưới thờ Ngũ hổ - tượng trưng cho năm vị thần tướng ngự trị ngũ phương - được vẽ thành năm con hổ với màu sắc khác nhau: Hoàng hổ tướng quân (hổ vàng) tượng trưng cho hành Thổ, trấn nhậm trung tâm (Địa khu); Hắc hổ tướng quân (hổ đen) tượng trưng cho hành Thủy, trấn phương bắc (Thủy khu); Bạch hổ tướng quân (hổ trắng) tượng trưng cho hành Kim, trấn phương Tây (Kim khu); Xích hổ tướng quân (hổ đỏ) tượng trưng cho hành Hỏa, trấn phương Nam (Hoả khu); Thanh hổ tướng quân (hổ xanh) tượng trưng cho hành Mộc, trấn phương Đông (Mộc khu). Có gia đình thờ năm ông, có gia đình chỉ thờ một ông. Trong trường hợp này, tùy theo mạng vận của gia chủ thuộc hành nào trong Ngũ hành mà thờ Ông Ba mươi có màu sắc của hành đó, hoặc hành tương sinh với bản mệnh của gia chủ. Thí dụ gia chủ mạng Hỏa, có thể thờ Xích Hổ hoặc Thanh Hổ…
Ngũ hổ - tranh thờ Hàng Trống - Ảnh: Tư liệu
Vào những ngày Rằm, mùng Một, ngoài hương hoa, oản chuối, các cụ còn cúng một miếng thịt heo sống trên bàn thờ Ông Ba mươi một cách tôn kính. Dân gian có tục lệ là vào ngày mồng ba Tết Nguyên đán, sau khi cúng đưa Ông Bà xong, thường dán trước cửa nhà mảnh giấy hồng điều có hình cọp với lòng tin là Ông Ba mươi sẽ trấn giữ không cho những thứ hiểm độc vào nhà, phù hộ cho gia trạch bình an, loại trừ tai nạn. Ông già bà cả còn truyền dạy, nếu trẻ con khóc đêm thì người mẹ phải lén “ăn trộm” hình vẽ Chúa Sơn lâm để trong gối nằm của trẻ thì chúng sẽ hết khóc.
Lá bùa trừ tà
hình vẽ trong tác phẩm “La Technique du Peuple Annamite” của Henry Oger (1908)
Ảnh: Tư liệu
Ở thôn Phú Lộc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xưa có Văn miếu trấn Bình Hòa thờ đức Khổng Tử. Miếu khởi lập vào năm Gia Long thứ hai (1803). Bên cạnh miếu, dưới gốc một cây cổ thụ, có một bàn thờ xây gạch. Đó là bàn thờ Chúa Sơn Lâm, tức là Cọp. Mỗi lần tế miếu, đều đem một tợ thịt heo ba sườn ra đặt nơi bàn thờ. Truyền rằng, lúc miếu còn ở phía Tây, cũng như khi miếu đã dời sang Đông, hễ tế xong thì cọp đến tha thịt đi. Lại có lắm đêm cọp về nằm ngủ nơi bàn thờ. Ngủ đã giấc rồi đi chớ không bao giờ làm hại đến người hoặc súc vật. Từ ngày bỏ cúng tế theo cổ tục, cọp không về nữa (1).
CỌP KHÁNH HÒA
Khánh Hòa ngày xưa nổi tiếng về cọp. Chẳng thế mà phương ngôn có câu: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” đánh dấu một vùng đất cực Nam Trung bộ còn đầy vẻ hoang sơ, rậm rạp và nhiều ác thú của buổi đầu khai phá.
Người ta giải thích rằng ở tỉnh Khánh Hoà lưu truyền câu ấy là vì vùng này có lắm cọp. Kể ra cũng đúng nhưng chưa đúng hẳn. Thiếu gì nơi có cọp, mà cũng là cọp dữ, chứ riêng gì ở Khánh Hoà. Trong tác phẩm “Non nước Khánh Hòa”, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư có kể lại một giai thoại như sau: Hồi chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp trong Nam, vùng này có hai vợ chồng ông Trịnh sống trong rừng núi. Ông Trịnh có sức khoẻ, lại sống lâu ở chốn sơn lâm, nên được làm quen với… cọp! Có con cọp già quấn quít, thân thiện với vợ chồng ông như người trong nhà. Trong quá trình mở mang đất đai, khai phá non sâu rừng rậm, chúa Nguyễn phải đối phó với nhiều lực lượng phe phái. Có những tin tức cho biết rằng vợ chồng ông Trịnh cũng là người thuộc phe chống đối. Quân Nguyễn tìm cách lùng bắt, cuối cùng bắt được ông Trịnh giải về Nha Trang và kết án tử hình. Bà vợ ông được tin, suốt ngày than khóc nhưng chỉ biết tâm sự với cọp già kia thôi. Cọp ta hiểu biết sự tình, liền gọi cả họ hàng cọp ở trong rừng ra, kéo xuống pháp trường để giải cứu cho ông Trịnh. Nhưng bầy cọp vừa đến nơi, thì đầu ông Trịnh đã bị đao phủ chém lìa khỏi cổ. Cả bầy cọp thất vọng chạy nhớn nhác lung tung, gầm thét vang trời. Chúng lồng lên phá phách làm cho cả quân lính và dân chúng bỏ chạy toán loạn, tìm lối thoát thân. Mãi đến xế chiều, pháp trường chỉ còn là bãi trống tan hoang, cọp mới chịu rút về núi. Cái tin bầy cọp đại náo pháp trường từ đó truyền đi làm cho ai nghe cũng rùng mình sởn gáy. Tiếng “Cọp Khánh Hoà” lan rộng là vì thế (2).
Nói vậy chứ cọp dữ đất Khánh Hòa xưa nhiều thật chứ không chỉ là lời đồn đại. Bằng chứng còn được ghi nhận không ít trong sách vở cũng như trong các câu chuyện truyền khẩu của dân gian.
Các cụ cao tuổi ở địa phương thường kể rằng, xưa có xã ở lẫn bên rừng, hàng năm cứ đến chiều ba mươi tết là họp kỳ lão trong làng, lập giấy bảo cử cho cọp làm lý trưởng. Họ biện xôi, rượu, làm thịt một con lợn đặt trên mâm, trên để tờ giấy ghi rõ là nhất trí cử cọp làm lý trưởng của làng. Thế là trong cả năm ấy, dân làng ai vào rừng kiếm củi, đào khoai mài, lấy củ nâu hễ nghe tiếng cây cối rung động, đều kêu to lên: “Ông lý trưởng ơi ông lý, tôi là người trong làng đây, đừng có lầm”. Hoặc có khi họ kiếm được lâm sản chất đống trong rừng, không kịp đưa về, cũng hô lớn: “Đây là của người làng, nhờ ông lý canh hộ đừng cho ai lấy trộm”. Vậy mà kết quả rất kỳ lạ. Cả năm, dân làng không ai bị cọp vồ. Có lần, có người khác đến lấy trộm củi, cọp đuổi cho bỏ chạy. Lại có lúc, ruộng nương ven núi bị khỉ phá phách, chức dịch trong làng trèo lên cây cao nói to: “Bọn khỉ ra ngắt lúa, làm hại ruộng nương của dân, ông lý không biết hay sao mà để chúng tác quái như vậy?”. Thế là ngày hôm sau, thế nào dân làng cũng thấy vài ba khỉ chết ở bờ ruộng. Tai hoạ mùa màng nhờ thế mà cũng tránh khỏi.
Ở huyện Cam Lâm có núi Diễn Sơn, xưa nổi tiếng rất nhiều cọp, lại ở gần đường cái nên ngày xưa khách bộ hành thường gặp tai nạn bị cọp vồ. Người ta kể lại rằng, ngày xưa ở núi này có một con cọp đầu đàn, sống trên trăm năm. Nó chỉ có ba chân lành, còn chân trước bị què, nhưng khỏe mạnh hung dữ vô cùng. Cọp hay xuống các làng quanh vùng bắt người và súc vật, gây sự lo sợ hoang mang cho dân chúng. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của Sử quán triều Nguyễn, năm Đinh Tỵ (1797) quan Trấn thủ Thành Diên Khánh là Nguyễn Văn Thành mật cầu với Bà Chúa Ngọc (tức Thiên Y Thánh Mẫu), xin Bà giúp trừ nạn cọp để tránh mối họa cho lương dân thì sẽ lập đền thờ phụng. Quả nhiên vài ngày sau quan quân bắt giết được con mãnh hổ. Từ đó người dân quanh vùng được sống yên ổn, không còn sợ nạn cọp vồ nữa. Quan Trấn thủ bèn lập đền thờ Bà Thiên Y dưới chân núi, gần ga Cây Cầy, gọi là đền Diễn Sơn. Ngày xưa, hàng năm quan đầu tỉnh phải sửa lễ tới đó cúng tế rất trang nghiêm.
Đặc biệt ở Khánh Hoà có loài cọp mun. Tương truyền loài cọp này thường tu theo các chùa hoặc tu trong các hang động. Trong tác phẩm “Xứ Trầm hương”, nhà thơ Quách Tấn có kể lại câu chuyện về Hoà Thượng Đò và đôi cọp mun tại Thiên Đức Tự - một danh lam thuộc huyện Ninh Hòa, như sau:
“Chùa cất trên ngọn đồi Bình Tây, xã Ninh Hải, khu vực Hòn Khói. Cất năm Minh Mạng nguyên niên (1820). Tổ khai sơn là Hoà Thượng Liễu Đức, pháp hiệu Huệ Giáo. Người đương thời gọi ngài là Hoà Thượng Đò.
Gọi như vậy là vì trong vùng có một bến đò, qua lại phải chờ đợi rất bất tiện. Hòa thượng bèn ra công bắc cầu. Không biết lấy gì đền ơn cho xứng đáng, người địa phương ghi công đức trên bia miệng bằng mấy chữ bình dân: Hòa Thượng Đò.
Vùng Bình Tây vì gần biển gần ruộng muối nên nước giếng măn mẳn khó uống. Hoà thượng bèn nạy đá đào giếng. Giếng sâu thăm thẳm và ngọt như nước cam tuyền. Cả vùng đều đến múc uống. Và để tỏ lòng tri ân, gọi giếng là Giếng Thảo.
Đạo hạnh của Hoà thượng rất cao. Chẳng những người đời ngưỡng mộ mà cả đến thú vật cũng qui y.
Truyền rằng ngọn đồi Bình Tây xưa kia có nhiều cây cối. Trong rừng có đôi cọp mun thường xuống đồng bằng phá khuấy lương dân. Nhưng từ ngày Hoà thượng đến tu trì thì đôi cọp trở nên hiền hậu.
Muốn sớm về Tịnh Độ, Hoà thượng thiết hoả đàn trà tì. Nhưng khi ngài bước lên đàn thì một đôi cọp mun nhảy đến cõng ngài ra khỏi lửa. Biết rằng pháp duyên chưa viên mãn, Hoà thượng phải tiếp tục hoằng pháp độ sinh tu hành cho đến ngày viên tịch” (3).
Hình hổ trang trí trên đồ gốm Chu Đậu (cuối thế kỷ thứ XV, thời Lê sơ)
Ảnh: Nguyễn Trọng Hỷ
GIẢY BỘ HỔ
Cụ Phạm Phú Viết, 80 tuổi, ngụ ở xã Diên Toàn, Diên Khánh vẫn còn nhớ như in ông bà mình kể lại chuyện đàn voi của tỉnh đi “giảy bộ hổ”, tức là đi săn cọp về làng. Thuở ấy, Thành Diên Khánh hùng cứ trên một khu vực còn rất hoang sơ. Các xã “phụ lũy” chung quanh Thành chỉ mới lèo tèo dăm ba chục nóc nhà. Khỏi cửa tiền hai cây số, chưa đến bến Cầu Lùng, cọp vẫn kéo về đợi mồi ở các mô đất cao miễu đất Thổ Sơn ngã lên Gò Đình làng Phú Mỹ cũ. Đội quân tượng của tỉnh trong khung cảnh gần như giang sơn riêng của chúng, hằng ngày vẫn dẫn nhau, vừa tuần phòng, vừa nhởn nhơ tập tiến thoái ở đầm voi tập trận - một bãi lầy sông Đồng Đen trước miễu Cây Me, hoặc lội qua sông tập ở khu đất mả voi làng Phú Lộc.
Ngày ấy, “Ông ba mươi” thường len lỏi về các làng xã tận vùng đồng bằng để bắt heo, bò. Trời sáng nhanh, đường vào rừng thì xa, lôi heo bò đi không kịp, con vật ăn trộm hung dữ cõng con mồi ẩn mình trong các ruộng mía rậm. Người ta lần theo vết máu, biết ngay kẻ trộm đang ở đâu.
Chỉ giây phút sau, ngay tại Thành tiếng trống thúc gọi lính đã nổi lên rộn rã. Cuộc tập họp săn cọp về làng bắt đầu. Lúc ấy trong đội quân tượng có con voi Thanh rất tinh khôn. Nó được triều đình phong chức tước đàng hoàng, dẫn đầu đoàn voi phục vụ đắc lực cho việc “giảy bộ hổ” của tỉnh. Một khắc sau, lính tỉnh đã nai nịt cung tên, giáo mác dẫn đầu, voi Thanh đi kế tiếp, sau đó đến voi Kỳ, voi Chản. Chú voi “bồ cốc” còn nhỏ quá, để chú ở nhà. Dân chúng hồ hởi kéo nhau theo xem hỗ trợ. Mọi người rất phấn khích, vừa hồi hộp sợ cọp lại vừa ỷ số đông, không bỏ lỡ dịp may hiếm có này mà đi coi cho mãn nhãn. Theo tiếng trống mõ, “giảy bộ hổ” qua làng, qua đồi, qua mương... đến ruộng mía. Đoàn người đang bủa vây ruộng mía vội vẹt tránh ra một khoảng vào khá rộng. Trống mõ im tiếng để lệnh nài hô lên voi nghe cho rõ. Voi Thanh đứng giữa, voi Kỳ bên phải và voi Chản bên trái. Kế đến là tua tủa gươm giáo của các quân lính và những người đi săn vốn đã học thành thạo các thế võ đánh hổ. Theo tiếng lệnh của quản tượng, họ tiến lên thành hình một chữ A, mũi nhọn của chữ A là voi Thanh. Nó lập tức vươn vòi nhổ một ôm mía rất lớn, cuộn chặt vòi đưa cao bó mía lên như một loại vũ khí. Kỳ và Chản làm y rập theo “anh cả”. Đội hình tiến lên độ mười thước theo dấu mía bị đổ ngã thì y như rằng, một tiếng gầm đinh tai nhức óc từ chỗ mía rậm phát ra làm mọi người sởn gai óc. Ai nấy chưa kịp định thần thì, thoắt một cái, một khối vàng dện rằn ri nhảy đánh vút đến ngang tầm đầu voi Thanh. Nhưng cọp chưa kịp chạm đến đầu voi. Bó mía của đại lực sĩ Thanh đập một đòn như trời giáng hoàn toàn trúng đích làm cọp văng lùi đến 3 thước. Chưa có thương tích gì cả, một bó mía thì nhằm nhò gì đến chúa sơn lâm kia chứ. Chỉ hơi choáng váng, nhưng chính trong cái tích tắc để kịp lấy tỉnh táo lại đó cọp bị luôn hai đòn mía của hai phó tướng Kỳ và Chản, hai đòn này đúng y chiêu thức cùng nội lực của anh cả. Lần này thì thấm đòn. Bậc võ sư chỉ qua lại đôi đòn là đã biết ngay tình thế. Mãnh hổ đành thua tam tượng. Cọp thu hết sức lực phóng vọt lên cao về một bên để phá vây. Nhưng con người đã tính trước, các vuốt cọp dính vào mắt lưới và lưới quằn sụp xuống chụp lên thân cọp. Đang vướng víu lồng lộn gào thét vang động không gian thì một lưỡi giáo sắc lẻm đã chiếu đúng yết hầu đâm thẳng xuống. Người ta xúm lại trụ bộ “xuống tấn” ghịt chặt cán giáo...
Không hề liếc mắt nhìn thêm xác kẻ thù hung dữ đang nằm sóng soài, voi Thanh bươn bả quay về Thành. Một phần thưởng lớn, một bữa tiệc khao quân đang chờ nó. Khác với thực đơn thường ngày chỉ có các gánh cỏ và thân chuối cây, lần này người ta bày biện cho “tướng soái” và “phụ tá” của “Ngài” những bó mía mây vàng óng, mượt mà, những giỏ trái thơm và một máng gỗ đầy nước dừa tươi vừa bổ quả ra có lẫn những khoanh cơm dừa trắng tươi và giòn tan. Lại còn ba tảng đường đen ngay ngắn để trên tàu lá chuối và một tảng khác nhỏ hơn dành cho chú em “bồ cốc” ăn theo. Có công thì hưởng. Voi Thanh ăn rất ung dung, nhẩn nha, chốc chốc lại nghịch ngợm đưa vòi đẩy nhẹ vào bụng lũ trẻ đang thích thú bao quanh xem rất thèm thuồng (4).
Một con cọp bị quan quân bắt - Ảnh: Bưu thiếp Đông Dương
CHUYỆN CON SÂU RÂU CỌP
Khoảng năm 1950, một tờ báo hằng ngày ở Sài Gòn, tờ Sài Gòn Mới, đăng tin tại vùng nông thôn tỉnh Khánh Hòa có người làm thuốc độc hại người, bằng cách lấy cứt của một loại sâu lạ, phơi khô, tán thành bột, dùng đầu móng tay chấm bột đó vào trái cây. Họ đến các chợ, ghé vào dãy gánh trái cây giả vờ lựa mua rồi thừa dịp bấm đầu ngón tay có thuốc bột đó vào trái ổi, xoài, mận, vú sữa, đu đủ chín, thanh long… Ai ăn nhằm nhiều trái cây kể trên có thể chết ngay, ăn ít thì bị ho dữ dội dây dưa lâu ngày rồi cũng chết, chỉ có thuốc “giải” của người làm chất độc bào chế mới trị dứt chứng ho được.
Con sâu lạ đó là “con sâu râu cọp”. Họ lấy râu mép của cọp cắm vào mụt măng tre một thời gian sanh ra con sâu. Đầu tiên họ để nó trong cái ảng nhỏ, dần dần lớn lên thay đổi bằng khạp 10 lít nước rồi khạp lớn 40 lít nước, cuối cùng là cái lu 100 lít nước. Con sâu lớn bằng bắp chân, mình đầy lông dài.
Cứt sâu phơi khô tán thành bột, dùng đầu móng tay chấm và bấm vào các thứ trái cây không có vỏ cứng hoăc lén bỏ vào khạp nước của người khác. Ỏ thôn quê nhà nào cũng có khạp nhỏ đựng nước ngọt để trước hiên, người nhà dùng và cho người qua đường uống giải khát.
Họ chế thuốc giải độc, đưa cho người tin cẩn bán đắt tiền, không ai biết họ là tác giả. Chỉ có thuốc giải độc của họ mới trị dứt chứng ho.
Sau cùng tác giả bài báo viết, chánh quyền cần lưu ý điều tra và có biện pháp chấm dứt hành động thất đức kể trên.
Theo lời nhà nghiên cứu đã quá cố Lê Quang Nghiêm, sinh thời bạn của cụ là ông Nguyễn Giác, người ở thôn Hà Thanh, xã Ninh Đa, huyện Ninh Hoà có kể lại câu chuyện như sau:
Cách nay lối trên 90 năm, tại phía bắc giữa lưng chừng đèo Bánh Ít có gia đình vợ chồng nông dân và đứa con trai lối 12 tuổi. Năm đó với số tiền dành dụm mấy năm, họ thuê một toán thợ mộc cất nhà. Thợ mộc đến ở tại chỗ và chủ phải bao ăn uống cho đến khi xong việc.
Trong thời gian thợ dựng nhà, thỉnh thoảng vài ba ngày chủ nhà làm con gà lớn đãi ăn, nhưng lần nào cũng vậy chỉ dọn lên vài dĩa nhỏ lối nửa con gà. Thợ lấy làm lạ không biết số thịt gà còn lại để làm gì mà không thấy vợ chồng chủ nhà ăn. Thắc mắc của họ được giải toả nhân một hôm vợ chồng chủ nhà có việc phải đi vắng một buổi. Đám thợ để ý lúc gần trưa thấy con trai của chủ nhà xách một gói bao bọc kỹ, ngó trước ngó sau rồi đi ra phía chân đèo sau nhà. Hai người thợ lén theo sau đứng rình. Thằng bé đến gần một gốc cây lớn khuất sau một hòn đá, cúi xuống kéo tấm mê tre trên phủ đầy lá khô qua một bên, rồi dở nắp miệng hầm nhỏ trút gói đồ xuống và đậy nắp lại.
Hai người thợ liền chặn thằng bé lại hỏi thì nó ú ớ không nói ra lời, mặt nó tái mét. Dỡ nắp hầm ra, nhìn thấy một con vật lớn bằng con heo con, mình đầy lông, đang ăn thịt gà sống của thằng bé vừa trút xuống.
Họ báo tin cho thợ trong nhà ra xem, biết đó là con sâu râu cọp của vợ chồng chủ nhà nuôi để làm thuốc hại người, một việc làm vô nhân đạo mà chính quyền cấm.
Đám thợ lấy nước sôi đổ xuống hầm giết con sâu, một mặt cho người đến báo cáo với Phủ Bình Khang (huyện Ninh Hoà ngày nay). Khi lính phủ đến bắt con vật lên thì đó chính là con sâu râu cọp thật to gần bằng bắp chân, mình đầy lông dài.
Vợ chồng chủ nhà bị bắt. Với tang chứng rành rành không chối cãi được, phủ Bình Khang kết án người chồng mấy năm tù.
Sài Gòn vào những năm 50 của thế kỷ trước,
vẫn còn thấy cảnh người dân vác rất nhiều da hổ đi bán dạo trên phố
Ảnh: Bưu thiếp Đông Dương
CHÚ THÍCH:
(1) Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa tái bản lần thứ hai, 2002, tr. 230
(2) Nguyễn Đình Tư, Non nước Khánh Hòa, Sông Lam xuất bản, Sài Gòn 1969, tr. 55-57
(3) Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa tái bản lần thứ hai, 2002, tr. 254-256
(4) Phạm Phú Viết, Tìm hiểu Văn miếu Diên Khánh, Tư liệu lưu hành nội bộ Nhóm thân hữu Văn Miếu, 2001, tr. 184-190
(5) Là tác giả công trình “Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa” - giải Nhất biên khảo năm 1969 của Trung tâm Văn bút Việt Nam.
0 comments:
Post a Comment