Có hai trường hợp nhập xác : tạm thời và vĩnh viễn.
a-Nhập xác tạm thời : Trong không gian, ngoài thể vật chất mà chúng ta nhìn thấy được như thân người, sinh vật, cây cỏ, còn có nhiều thân ở thể tâm linh nơi các cõi giới khác, nó là thể hơi rất nhẹ không nhìn bằng mắt thường được, họ cũng có sinh hoạt riêng của họ tùy theo trình độ tiến hóa mà họ ở các cõi cao hơn loài người hay thấp hơn loài người, và thời gian một năm ở các cõi cũng khác nhau.
Nhập xác tạm thời là một trong những thân tâm linh ấy nhập vào thân xác của một người không hoàn toàn đủ 7 thể tâm linh, mà tùy thuộc vào mục đích nhập xác như báo tin, quấy phá, trả thù..
b-Nhập xác để báo tin : Năm 1970, ở đơn vị tôi, đêm nào cũng bị pháo kích, thỉnh thoảng lại có những người bị trúng đạn chết. Ở địa phương có một cái lăng nhỏ thờ thành hoàng, theo lời kể của dân địa phương thì trước kia linh thiêng lắm, bây giờ thì hoang tàn. Bỗng nhiên lúc 2 giờ chiều một ngày kia, có một anh lính trẻ nhất đơn vị mới nhập ngũ, mặt non choẹt nhảy cò cò bằng một chân nghe bình bịch nặng nề đến trước mặt chúng tôi, nói giọng khàn khàn của người già, ông cho hay ông là thành hoàng tên là Almy người Hời đã chết cách nay 300 năm, báo tin cho chúng tôi biết đêm nay lúc 12 giờ có một quân nhân sẽ phải chết. Chúng tôi hỏi tên và biết ra gia cảnh trong sổ quân bạ của anh còn cha mẹ già, nếu phải chết thì tội cho gia đình, chúng tôi nhờ ông cứu mạng. Ông nói số phải chết đêm nay do ác nghiệp mà anh ta đã gây ra. Nể lời thỉnh cầu của chúng tôi, ông chỉ có thể giúp được bằng cách xô anh ta qua một bên cho đạn trúng gẫy chân, còn thoát chết hay không là do số mạng của hắn. Ông muốn cho chúng tôi chứng kiến được mọi sự kiện xảy ra từ đầu tới cuối, ông yêu cầu thiên cơ bất khả lậu và cử một linh hồn đến gác bên cạnh giường ngủ chúng tôi, đến 12 giờ sẽ đánh thức chúng tôi dậy. Vì là tiền đồn, tối phải tắt hết đèn tránh làm lộ mục tiêu bị pháo kích, những người không có nhiệm vụ trực gác đều đi ngủ sớm lúc 8 giờ. Lúc 12 giờ con ma ấy cầm chân kéo chúng tôi dậy. Chúng tôi mặc áo giáp, đội nón sắt, ngồi chờ dợi trong pháo đài tối mờ mờ nhờ ánh sao đêm, một lát sau nghe đạn pháo bắt đầu nổ rải rác ở các điểm đóng quân của các đơn vị bạn, rồi đến đơn vị chúng tôi, một trái nổ ầm ngay góc sau pháo đài của tôi để mở đầu cuộc pháo kích. Mỗi khi bị pháo kích chúng tôi không chạy ra ngoài mà ở trong lô cốt hoặc trong pháo đài là căn hầm vừa là nơi ngủ vừa là nơi phòng thủ, chĩa súng ra các lỗ châu mai ở 3 hướng chờ đợi địch sẽ tràn vào đơn vị để tấn công doanh trại sau khi pháo kích xong, lúc đó chúng tôi sẽ bắn hỏa châu soi sáng khắp bên ngoài doanh trại để thấy rõ địch quân đến tấn công. Trong khi các trái đạn pháo kích nổ ầm ầm chỗ này chỗ kia, máy truyền tin liên lạc từ pháo đài chỉ huy đến các pháo đài phòng thủ gọi nhau thông báo tin tức và mệnh lệnh, bỗng có một tiếng hét lớn A !!! rồi ngưng bặt ở phía sau dẫy nhà để quân xa. Tôi nghi là anh lính đã bị nạn, nhưng vì thiên cơ bất khả lậu, cả đơn vị không ai biết bí mật này, lại nữa câu chuyện có vẻ mê tín dị đoan ai mà tin, trong khi đó các máy truyền tin liên lạc báo tin quân số đầy đủ tại mỗi pháo đài phòng thủ. Sau 2 giờ bị pháo kích rồi im lặng không có cuộc tấn công nào, đơn vị tập họp lại điểm quân số đều báo cáo đầy đủ, tôi cũng mong anh ta được bình yên. Mười lăm phút sau, kẻng ở một trạm gác báo động, lính gác cho hay chưa có ai ra thay phiên gác, thì ra chính anh ta trên đường ra thay phiên gác đã bị trúng đạn pháo kích bị thương nặng gãy văng một đùi cách xa người 6 mét đang thoi thóp thở. Tức tốc xe tải thương và một trung đội chiến đấu đi đầu chạy mở đuờng đưa anh đến bệnh viện dã chiến. Anh bị mất máu quá nhiều, các quân nhân ai có loại máu O đều hy sinh hiến máu truyền cho anh ta. Sáng hôm sau chúng tôi đến thăm anh thì bệnh viện đã đưa anh xuống nhà xác.
Trong trường hợp này ông Almy nhập vào anh lính trẻ ở thể vía (chân cụt), thể phách ( giọng nói khàn khàn), thể ý ( truyền đạt tư tưởng), thể thượng trí ( biết trước thiên cơ ), người bị nhập là anh lính trẻ không nhớ những gì mình đã nói và làm ( nhẩy cò cò vì ông thành hoàng Almy bị cụt một chân ).
b-Nhập xác để cứu người :
Khoảng năm 1970, ở Quảng Ngãi các đơn vị quân đội thường xuyên bị pháo kích, nên tất cả các quân nhân đều ăn ở trong một hầm trú ẩn vừa là lô cốt phòng thủ, tác chiến, cứ 7 người 1 lô cốt. Trong đó có 1 lô cốt toàn là các quân nhân thuộc ban quân xa, trong lô cốt chứa xăng, trái sáng mà họ đã tham lam lượm về làm của riêng, thay vì trao trả vào kho, chỉ có một người khác tính nết họ, ông tên là Nhu, tín đồ Công Giáo thuần thành, chân thật, hiền lành. chỗ ông năm ngay chính giữa pháo đài, mỗi tối thường đọc kinh trước khi đi ngủ. Đêm hôm đó lô cốt bị trúng một qủa pháo, lô cốt xập nát, thịt da tan nát văng tứ tung dính lên tường vách đất. Người ta thu nhặt bỏ chung vào một bao chôn chung trước pháo đài và ghi tên 7 người chết trong pháo đài đó.
Ngày hôn sau, mọi người thấy bác Nhu ở đâu lù lù đi đến, áo quần dính đất, hóa ra bác không chết. Điều tra cặn kẽ, hỏi tối hôm đó bác làm gì ở đâu ? Bác trả lời : Vào pháo đài, đi ngủ sớm lúc 8 giờ. Hỏi lúc bị pháo kích bác có biết không, bác trả lời không. Thế bác ra khỏi pháo đài lúc nào. Bác trả lời : Tôi có biết gì đâu, đêm ngủ, tôi thấy một vừng hào quang sáng chói của Chúa, và có người dẫn tôi đi theo Chúa. Khi tỉnh dạy mở mắt ra thấy tôi nằm dưới một gò đất, khi về không thấy lô cốt đâu tôi mới lên đây, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra…..
Sau đó chúng tôi đưa bác lên quân y viện kiểm tra sức khỏe. Bác bị chấn thương phổi phải nằm viện 1 năm, rồi được giải ngũ vì thương tật. Ngày bác xuất ngũ, Nhà Thờ Giáo Xứ Rừng Lăng đã mời tất cả các đơn vị đến dự lễ lớn tạ ơn Chúa đã hiện ra phép lạ cứu bác Nhu.
c-Nhập bằng thể vía để báo tin : Tôi có một em trai chết năm 3 tuổi, 7 năm sau đứa em gái 7 tuổi đang nằm ngủ bên cạnh mẹ tôi lúc đó đang ngồi trên giường đan áo. Tôi ngồi học bài bên cạnh mẹ tôi, 10 giờ đêm nhìn ra ngoài trời tối đen như mực, gió thổi vào nhà hơi lành lạnh, trong nhà đèn điện sáng trưng, cửa thông ra sân sau khép hờ, thỉnh thoảng bị gió thổi lắc qua lắc lại, bỗng nhiên em gái tôi trong cơn ngủ mê, tự dơ tay đánh vào đùi và la hét lên bảo rằng Mẹ ơi, anh Ngọc đánh con. Nó cứ lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn ngủ say. Chúng tôi đánh thức nó dậy và hỏi ai đánh nó, nó trả lời rằng tôi đứng cạnh giường đánh nó mấy lần. Mẹ tôi lấy làm lạ, bà suy nghĩ rồi chợt nhớ ra, em trai tôi có khuôn mặt giống tôi, ngày mai là ngày giỗ nó mà tâm bà suýt lãng quên, bà thầm cầu nguyện, sau đó em gái tôi ngủ bình yên. Trường họp này em trai tôi chỉ nhập thể vía mượn tay em gái tôi làm cử chỉ để báo tin.
d-Nhập bằng thể vía qua trung gian một vật như bàn cơ để báo tin:
Nhiều người không tin vào trò chơi bàn cơ để gọi các hồn ma nhập vía chỉ vào từng chữ cái trên bàn cơ để ráp thành câu, truyền đạt ý muốn. Nhưng các chức sắc Cao Đài thường được những vị Thầy giáng cơ bút để dạy Đạo là có thật.
Tôi có người bạn đồng ngũ là tín đồ Cao Đài đã về Tòa Thánh Tây Ninh mượn một bàn cơ đem ra Quảng Ngãi, nơi đơn vị đóng quân, bên cạnh một nghĩa trang, có rất nhiều người bị chết oan thời chiến tranh. Mỗi đêm lúc 12 giờ, chúng tôi thường đem bàn cơ để trên mui xe GMC đậu ở cạnh bãi tha ma, thắp nhang cầu nguyện sẵn lòng giúp đỡ những oan hồn nào còn vất vưởng chưa siêu thoát.
Khi thể vía hồn ma nhập về làm cơ di chuyển, chỉ vào chữ này chữ nọ, đôi khi họ chọc ghẹo mình, chỉ vào chữ ma, chỉ vào chữ qủy, chỉ vào chữ thần, thánh… chúng tôi mời họ ra, và khi chúng tôi nói mục đích của chúng tôi muốn giúp họ, nếu có ai đi ngang, xem giùm có hồn ma nào cần giúp đỡ thì hãy mời họ nhập vào cơ để chúng tôi đỡ mất thời giờ.
Có một lần, cơ chạy rất chậm, chúng tôi chưa kịp hỏi xã giao, cơ cứ chạy tự nhiên, chúng tôi ráp thành một đoạn văn sau đây :
“Tôi tên là Nguyễn Thị Mót, 73 tuổi, khi đi ngang chợ phiên làng ở đây bị tây bắn chết, cách đây gần 60 năm, dân làng chôn tôi ở chỗ….. Tôi muốn nhờ các cậu xin cho tôi vào chùa ….quy y để nghe kinh kệ tu hành”
Tôi nói : Uả, nơi chôn cụ ở ngay chùa rồi mà sao cụ không được nghe kinh.
Cụ lại cho cơ chạy thành câu : Tôi bị hủi, những ma ở đó họ đuổi không cho tôi vào chùa
Tôi nói : Họ không cho cụ vào chùa thì chúng cháu giúp cụ bằng cách nào ?
Cụ viết tiếp : Các cậu vào chùa xin Thầy trụ trì cho tôi quy y làm con của Phật, lúc đó tôi mới được vào chùa.
Ngày hôm sau, chúng tôi tìm đến chùa cách xa nơi chúng tôi ở khoảng 5 km, hỏi thăm các bô lão làng, họ xác nhận có chôn cụ ở đám đất trống gần đây nhưng địa thế đã thay đổi thành chợ, thành chùa và nhà san sát, không biết đích xác là chỗ nào nữa. Chúng tôi đi vòng chung quanh chùa, có một khoảng tường mọc rêu xanh như lời cụ nói là chỗ hài cốt của cụ ở dưới đó. Tôi lại gần, dơ xòe bàn tay rà rà hướng xuống đất, miệng thầm nguyện, nếu phải đúng cụ nằm nơi đây thì giựt lắc tay cháu 3 lần. Tự nhiên tay tôi bị giựt 3 cái, tôi xin cụ lập lại lần nữa, tay tôi lại bị giựt 3 cái. Tôi nói : Thôi được rồi, chúng cháu sẽ vào chùa thưa với thầy trụ trì để xin quy y cho cụ.
Đến đêm ngày 16 ta, chùa nào cũng cúng rằm xong, tôi nghĩ chắc cụ đã được quy y theo Phật rồi, nên lại đem bàn cơ ra bãi đậu xe, thỉnh cụ về.
Vía cụ nhập vào cơ viết ngay một câu như sau : Tôi xin cám ơn các cậu, tôi đã được quy y vào chùa. Kể từ nay xin các cậu đừng gọi tôi nữa để tôi yên tâm tu hành. Thăng.
Cũng nhờ vào bàn cơ mà tôi biết, ngay dưới nền căn hầm trú ẩn của chúng tôi là mồ mả lâu đời của một vị thống chế người Hời. Mỗi đêm có hiện lên nhiều bóng dáng (ý-thân) mà chúng tôi nhìn được, gồm 12 vị tướng quân Hời, mình mặc chiến bào giống như chiến phục của vua Quang Trung đi qua đi lại trước cửa pháo đài. Vị tướng nhỏ tuổi nhất khi chết ở tuổi 42, ông cho biết các vị kia đã già, rất nghiêm nghị, không tiếp xúc với những người thế tục, chỉ có ông được phép giao tiếp với chúng tôi mà thôi. Ông giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, không phải qua bàn cơ mà trao đổi bằng ý-thân khi ngủ hay khi thiền. Ông kể đất này của dân tộc Hời, người bạn Cao Đài của tôi kiếp trước là một hoàng tử Hời, yêu một công chúa Hời, nhưng duyên không thành, công chúa tự vẫn chết, nay đã trở thành Tiên Mẫu, ông gọi là Tiên Cô Sao cũng đang có sứ mạng cai quản vùng đất này, Ông thành hoàng ở đây là Qủy Vương Almy cụt một giò, cũng đã kể cho chúng tôi biết, ông tu 300 năm không thành chánh qủa, đã theo làm đệ tử của Tiên Mẫu. Tiên cô Sao cũng có người em trai hiện là một trong 2 đồng tử đứng cầm lọng che hai bên cho Mẫu Mẹ khi Mẹ giảng đạo trên thiên đình. Vị đồng tử này đã mô tả một buổi giảng đạo, ngồi trên tòa cao là Mẫu Mẹ, dưới là 20 Tiên Mẫu, và dưới nữa là hàng ngàn quần tiên của những Tiên Mẫu đi theo học đạo. Cậu đồng tử này đã lập lại những lời giảng của Mẫu Mẹ cho chúng tôi nghe mỗi đêm.
Chúng tôi đã nhờ những vị này che chở đường tên mũi đạn mỗi khi bị địch pháo kích vào đơn vị rất có hiệu qủa. Trước kia mỗi tối khoảng từ 12 giờ đêm đến 2 giờ, các đơn vị đều bị pháo kích một lượt khoảng 200 qủa, đơn vị nào cũng có lính hoặc gia đình trong khu gia binh bị chết mỗi ngày. Nhưng từ khi được các vị che chở, không bao giờ đạn pháo rơi vào doanh trại của chúng tôi, chỉ có lần duy nhất được ông Almy báo trước có một quân nhân bị chết vì tới số làm ác không thể cải nghiệp được.
d-Nhập thể vía để quấy phá trừng phạt : Căn bệnh múa giật ( chorée, danse de St.Guy) có hai loại, loại bị tai nạn hoặc phạm thuốc tổn hại thể vía ở tiểu não, khám nghiệm y khoa có tổn thương thần kinh, hệ tim mạch. Loại tự nhiên bị múa giật không có triệu chứng bệnh, bị múa giật chân tay nhưng các thể khác bình thường, khám không tìm ra được nguyên nhân hữu hình, nhưng nguyên nhân vô hình do đụng chạm xúc phạm đến các thể tâm linh khác, nên bị họ nhập thể vía vào xác thân mình để trừng phạt một thời gian, sau họ xuất ra khỏi xác thân ta thì bệnh tự nhiên hết.
e-Nhập thể vía và thể ý để trừng phạt : Ở một đám giỗ cho người vợ lớn, người chồng tự nhiên đến qùy gối cạnh bàn thờ, hai tay quặt ra phía sau giống như đang bị trói, thỉnh thoảng tự tát vào mặt mình và tự tố giác những hành vi bí mật hãm hại vợ lớn chết để lấy vợ bé. Cử chỉ bị trói và bị đánh là thuộc thể vía và diễn tả tư tưởng sự việc là thể ý của bà vợ lớn.
f-Nhập bằng thể phách, vía, ý, trí : Năm 1948, có người chỉ điểm hãm hại, lính Tây ập vào nhà ông ngoại tôi, kết tội ông làm cách mạng, bắt tù giam, tịch thu trang viên để làm doanh trại tiền đồn. Hai năm sau ông ngoại tôi được thả ra nhưng Pháp không trả lại nhà và tài sản. Một hôm ông cho gọi tất cả gia đình con cháu tụ tập về quanh ông để ông báo tin hôm nay ông chết, và cấm không cho mọi người khóc và yêu cầu mọi người ra khỏi phòng để ông yên tĩnh một mình. Mẹ tôi, bà ngoại và các cậu, dì ra ngồi trên băng ghế ngoài sân chờ đợi nghe ngóng xem có động tịnh gì trong phòng của ông không. Đêm khuya thanh vắng, ánh trăng lặng lẽ soi sáng xuống những con người đang âm thầm khóc và thỉnh thoảng len lén đến cửa phòng ông nghe ngóng xem ông còn thức hay ngủ, cho mãi đến sáng, mọi người bước vào gọi ông thức dậy mới hay ông đã bỏ thân xác ra đi từ lúc nào không ai hay biết, ở dưới gối có 3 lá thư, một gửi cho chính phủ Pháp, một gửi cho bà con làng xóm, một gửi cho gia đình. Khi tiễn đưa linh cửu ông, cả làng bạn bè thân tộc xa gần đều đưa tiễn, sau đó gia đình phân tán mỗi người một nơi. Sắp đến ngày giỗ đầu một năm, ở nhà bà ngoại tôi xẩy ra một chuyện lạ, một buổi tối trời, cơm nước vừa xong, các dì ra sân ai làm việc nấy thường ngày, trời hơi se lạnh, dì thì dọn dẹp, dì rửa chén bát, dì thì lo bỏ than qủa bàng vào bếp lò và ủ lại cho sáng hôm sau. Trong căn nhà sàn bên sông lù mù ánh sáng của một cây đèn dầu đặt giữa giường trước mặt bà ngoại tôi đang ngồi bên cạnh chồng chăn và gối, mặt sau nhà là con sông có vài con thuyền của những bà con dưới quê lên lánh nạn cư ngụ tạm trên sông. Khi một dì đi qua mặt bà ngoại, bà tự nhiên hắng giọng lấy tay chỉ vào mặt dì tôi rồi nghiêm nghị mắng với giọng nói đàn ông: Bố chúng mày ngồi lù lù ở đây mà chẳng có đứa nào chào hỏi đến, lấy cho ta cái xe điếu. Dì sợ hãi chạy đi gọi mẹ tôi và các dì cùng các bà con dưới thuyền lên. Linh tính họ biết chắc là ông ngoại tôi nhập vào xác bà ngoại để về báo một chuyện quan trọng. Khi mượn được xe điếu, ông đòi ống điếu, rồi ông đòi thuốc lào, không ngờ từ lúc ông nhập đến lúc ông xuất đi tôi đã phải chạy đi mua cho ông 7 lần thuốc lào cách nhà 500m. Mọi người xúm lại chung quanh giường, bà con chòm xóm mỗi người hỏi một câu như : Ông đang làm gì, ở đâu, ông đi đâu, và hỏi thăm đến những người đã chết từ lâu bây giờ ra sao… Ông cho biết người đã tái sinh, người còn cực khổ, linh hồn còn vất vưởng, còn ông đang đi tra xét án, nhân tiện ngang qua đây ghé vào nhắn tin, ông chỉ thuyền quan của ông đang đậu ngoài kia. Tôi khiều vào đùi bà ngoại và hỏi : Ông ơi, thuyền của ông đậu ở đâu sao cháu không thấy ?, vì thực ra những thuyền chung quanh đấy là bà con ở dưới quê lên lánh nạn tôi đã biết, không thấy có thuyền nào lạ cả. Ông trả lời để yên cho ông nói chuyện. Ông xin phép bà con đừng hỏi chuyện nữa để ông có việc nói chuyện với vợ con. Ông nói với mẹ tôi và cá dì biết cuối năm nay ông sẽ đón bà ngoại tôi đi, còn mẹ tôi phải theo cha tôi di cư vào Nam (tiên đoán trước khi di cư 1954), em trai tôi đã chết lâu rồi phải cho nó quy y để khỏi vất vưởng, và mọi việc khác ông sắp đặt cho trước, rồi ông xuất thể tâm linh của ông ra khỏi thân xác của bà ngoại tôi. Trước khi ông xuất, mẹ tôi, các dì và bà con họ hàng khóc lóc năn nỉ xin ông nghĩ lại, mẹ tôi phải vào Nam, các dì còn nhỏ dại cần bà ngoại tôi chăm sóc, ông đừng đón cụ bà đi để khổ cho con cháu bơ vơ, ông nói để ông nghĩ lại. Thế rồi bà ngoại tôi úp hai lòng bàn tay lên mặt, ngửa đầu ra sau và nói : Tôi đi đây !
Sau đó bà ngoại tôi dật mình nhìn chung quanh hỏi sao bà con làm gì mà đến đây đông thế này, mùi thuốc lào ở đâu đem đi ngay, vì bà ngoại tôi sợ mùi thuốc lào lắm. Các vị trưởng tộc dặn tất cả mọi người chỉ nói cho bà ngoại tôi biết ông ngoại về dặn dò con cháu, dấu biệt chuyện ông sẽ đón bà đi, lúc đó bà ngoại tôi mới ngoài 60, tu tâm dưỡng tánh làm lành, đến 100 tuổi vẫn còn đi đứng khỏe mạnh không bệnh tật, bà mất như ngủ say.
g-Nhập bằng phách, vía, hồn : Mỗi năm vào các buổi lễ đình, hương chức trong làng chọn sẵn một người đàn ông tánh tình trung trực chuẩn bị thân xác để làm lễ xiên lình cầu bình an cho xóm làng. Lễ xiên lình là một vị thần nhập phách, vía, hồn, vào một xác thân, dùng một cây giáo dài 2m, đầu giáo là một mũi mác dài nhọn xiên thủng vào má từ bên này sang bên kia mà không chảy máu, cán giáo còn lại do một người đỡ cứ chạy qua chạy lại theo bước chân của người được thần đình nhập, khi thì múa quyền, khi thì lễ vái, lễ xong rút cây xiên lình ra, thần thè lưỡi dài ra lấy dao rạch đứt lưỡi một chút máu chảy ra đầy miệng, ông phun máu vào một mâm giấy vàng bạc để làm phép gọi là giấy bùa đem phân phát cho những người cần xin trừ tà ma. Sáng hôm sau tôi thấy 2 má của thân xác có hai đốm vôi trắng bôi lên, không có vết sẹo tổn thương ở má, hỏi ông có đau không, ông nói ông không đau, khi xiên lình làm lễ ông không biết. Không đau là thể hồn ông không bị tổn thương, má ông không có sẹo là thể phách không bị tổn thương, ông múa may gì ông không biết là thể vía của ông không làm mà là vía của thần.
h-Nhập để trả thù : Một người bị chết oan do cướp của, bị hãm hiếp, luật pháo không có chứng cớ buộc tội, người bị chết oan nhập vào họ tự tố cáo, tự moi ra những chứng cớ để luật pháp có thể trừng trị giúp họ, còn không, họ nhập vào xác kẻ tội phạm để gây tai nạn, bị hoa mắt tự đâm vào xe cộ, hay té lầu, nhẩy sông…
Khi còn đóng quân ở Quảng Ngãi, tôi thường nghiên cứu các hiện tượng siêu hình, tôi dược biết có một trường hợp trả thù hi hữu. Dưới chân núi Thiên Bút có một tiền đồn trước kia do lính Tây đóng, đã bắt một cô gái hãm hiếp đến chết. Cô trả thù bằng cách cứ mỗi đêm cô nhập vào một tên cho nó tự làm tình để cơ thể suy nhược từ từ đến chết. Sau này lính Sư đoàn 2 đến đóng, anh nào có máu háo sắc đều bị cô trả thù, họ đều mô tả hình dạng tuổi tác của cô giống nhau. Để được bình yên, họ lập một miếu nhỏ bên đường để thờ cô.
i-Nhập xác đặc biệt : Ở VN chúng tôi mở phòng chữa bệnh miễn phí để vừa hành nghề phước thiện vừa học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau hầu đúc kết ra một phương pháp chữa bệnh hoàn hảo có hiệu lực hơn phối hợp cả đông tây y, cho toa, bắt mạch, hốt thuốc, phát thuốc miễn phí, châm cứu day bấm huyệt, khí công, nhân điện, võ thuật dưỡng sinh, thiền..Có những bệnh nặng chúng tôi tình nguyện đến tận nhà bệnh nhân. Học trò của tôi là em trai của một người bạn, theo tôi hành nghề, cậu ta trước kia chữa bệnh bằng bùa chú giúp người không lấy tiền, nay muốn đổi sang cách chữa bệnh bằng day bấm huyệt và cách lý luận bệnh chứng theo đông y, cậu ta có khả năng tiếp xúc với các thể tâm linh bậc thầy và học thêm được nhiều điều ích lợi. Cậu ta thường báo trước cho tôi biết tình hình sức khỏe của những bệnh nhân mà tôi đang chữa ở chỗ này chỗ kia, có những ca bệnh tầm thường bệnh nhân còn rất khỏe nhưng cậu bảo tôi là họ sắp chết, nên từ chối đừng chữa tiếp, nếu chữa sẽ bị mang tiếng, trong số bệnh nhân của tôi có một em sinh viên Đại học Bách Khoa Phú Thọ đang học năm cuối, tự nhiên bị trúng phong méo miệng tê liệt nhẹ, tôi chữa khỏi và em đã có thể tự đạp xe đạp tiếp tục đi học lại, tôi vẫn chữa tiếp tục, bây giờ cậu ta bảo ngưng không chữa mới là chuyện lạ. Tôi hỏi tại sao. Cậu bảo Thầy chờ xem. Tôi đành viện lý do nói rằng em đã bớt nhiều rồi, dành thời giờ ở nhà ôn bài thi làm luận án cho xong, thi rồi thì chữa tiếp. Ngày nào em cũng đạp xe đi học đi qua phòng mạch, trong thời gian một tháng không có chuyện gì xảy ra, em thi kết qủa rất khá cha mẹ em rất mừng, mẹ em nói cả anh em giòng họ đều làm ruộng, , buôn bán, lao động chân tay, chưa có ai khoa bảng như nó.
Một hôm vào buổi sáng tôi được báo tin em đã chết, mẹ em cho biết hai hôm trước em bị đau răng hàm phải đi nhổ gấp, bác sĩ dặn nếu có ra máu nhiều và đau nhức phải trở lại ngay. Cháu nó đang vẽ dở bài để nộp cho kịp chiều hôm qua, tối nó đau uống aspirine cho đỡ đau chờ sáng đi tái khám, ai dè đêm cháu đi luôn.
Bản tính tôi trước kia hay bảo thủ cố chấp, chỉ tin vào tài năng chứ không chịu tin vào mê tín, cho nên có những bệnh nhân cậu ta bảo tôi đừng chữa tôi vẫn ngoan cố cứ chữa mà không cho cậu ta biết, thế mà cậu ta vẫn biết qua những bậc thầy vô hình của cậu chỉ điểm. Như thường lệ, tôi tiếp tục lại chữa bệnh cho một bà tê liệt cấm khẩu một tháng không ăn uống được đã từ từ khỏe lại. Một hôm tôi đến nhà bệnh nhân thấy vắng vẻ không có ai ở nhà, hàng xóm cho biết bệnh nhân sáng ăn xong bị đau bụng dữ dội phải chở vào nhà thương gấp, mấy hôm sau được biết cụ đã khỏe hơn, đang nằm bệnh viện điều trị tiếp, hai tuần lễ sau nghe tin cụ chết. Cậu ta cho biết đáng lẽ cụ chết ở nhà cách hai tuần trước, nhưng vì thầy cố chấp cứ tiếp tục chữa, Thầy Tổ vô hình muốn cứu thầy nên đã dời bệnh nhân vào bệnh viện cho khỏe lại rồi chết để thầy khỏi bị mang tiếng.
Lần lượt, tôi được báo trước sẽ có 4 trường hợp tương tự, không được chữa, nhưng tôi chưa tin, vẫn cố chấp đi chữa cho họ, nhìn bằng mắt thế tục, sức khỏe của họ mỗi ngày mỗi khá hơn, nhưng các thầy vô hình đã cứu tôi bằng cách dời họ vào bệnh viện rồi mới chết. Những chuyện sống chết như vậy vượt ngoài khả năng chữa bệnh của khoa học làm tôi thắc mắc nghi ngờ đến khả năng chữa bệnh của mình, cho nên tôi nghĩ rằng nếu mình có khả năng thực sự thì mình sẽ tiếp tục học hỏi them kinh nghiệm để trau giồi tay nghề, còn nếu mình bất tài, chỉ là thầy dởm thì mình sẽ dẹp nghề cho sớm. Vì thế, tôi nhờ cậu ta sắp xếp cho tôi được tiếp xúc với một vị Thầy tổ vô hình của cậu.
Một buổi tối trong căn nhà nhỏ của cậu có bàn thờ tổ Thái Thượng Lão Quân, cậu dặn tôi trước rằng tổ chỉ giáng phàm vài phút, phải chuẩn bị câu hỏi, cậu chỉ là xác bị nhập sẽ không biết gì để giúp tôi. Nói rồi cậu ta thắp nhang khấn vái nghiêm chỉnh thành kính làm tôi hồi hộp, cậu nhắm mắt, tay bắt ấn, múa một bài quyền và từ từ ngồi thiền. Tôi biết Tổ đã nhập vội chắp hai tay cúi lạy, và một đoạn đàm thoại ngắn diễn ra như sau :
-Kính lạy Tổ.
-Ta không phải tổ của ngươi.
-Xin cho con được gọi là Thầy.
-Ngươi đã có Thầy rồi.
-Sao con không biết, và không được dạy gì hết, nếu Thầy không dạy, con có biết gì đâu mà chữa bệnh…
-Ngươi phải tiếp tục chữa bệnh cứ người, và phải thay đổi phương pháp, nếu không thay đổi phương pháp sẽ làm 4 người bị chết.
-Con có biết gì đâu mà thay đổi phương pháp, nếu chết người thì con không làm nghề này nữa.
-Ngươi phải làm và phải thay đổi phương pháp.. Thầy ngươi là Ngài Hoa Đà…..Ngươi không nhiếp tâm đến ngài làm sao ngài tiếp độ cho ngươi. Ngươi cứ tiếp tục chữa bệnh phước thiện ở chùa, lúc nào cũng có ta hiện diện nơi đó.
-Con muốn được học và chữa bệnh bằng kinh mạch huyệt đạo hơn là học thuốc của Ngài Hoa Đà để tránh sát sinh.
-Bảy kiếp trước ngươi đã là học trò của Ngài Biển Thước giỏi về kinh mạch, nay ngươi phải chuyển mình theo Ngài Hoa Đà để độ chúng sinh…
Nói xong ngài hít thở và xả thiền. Quả nhiên mấy năm sau thể tâm linh tôi được học hỏi và được hướng dẫn tìm ra một phương pháp mới, viết thành tài liệu Hướng dẫn Tập luyện Khí Công Y Đạo.
k-Nhập xác vĩnh viễn :
Có những trường hợp thường gặp sau đây :
Trường hợp hóa thân : Một người vừa chết ở nơi này, thể tâm linh nhập vào đứa trẻ cũng vừa mới sinh ra ở nơi khác, mặc dù khác văn hóa, phong tục tập quán, thân xác mới có đời sống tiến hóa độc lập để tiếp tục tu học, hành đạo giúp đỡ kẻ khác, có thể thân xác mới sẽ là tu sĩ, bác học, khoa học gia.. . ít bị ảnh hưởng tâm tính của cha mẹ.
Trường hợp người hai mặt : Một người có đời sống bình thường, tự nhiên sau một tai nạn hoặc sau một cơn sốt thập tử nhất sinh, tánh tình thay đổi làm như hai con người khác nhau chung một thân xác, không thể biết lúc nào là người A lúc nào là người B, cứ sống chung như thế cho đến chết, có nhiều lý do đưa đến hậu qủa khác nhau. Thí dụ người chồng âm mưu với vợ bé ám hại vợ lớn chết, thể tâm linh vợ lớn nhập vào thân xác vợ bé vào ban đêm làm đổi tính nết của bà bé, sinh ra tính tình gắt gỏng, giận giữ, khó tính, nói hành nói tỏi suốt đêm để quấy phá hai người, ban ngày bà bé lại hiền dịu như cũ, hoàn toàn không biết chuyện gì đã xảy ra đêm qua, bà bé có lỗi với bà lớn nên bà lớn theo trả thù bà bé cho đến chết.
Người xúc phạm đập phá nơi thờ phụng linh thiêng sẽ bị ác thần trừng phạt làm tính tình thay đổi luôn, khám cơ thể không có bệnh, gọi là bệnh tâm thần, khi thì dễ thương tội nghiệp, khi thì dễ ghét, chính bệnh nhân đôi khi cũng tự biết mình kỳ cục mà mình không kềm chế được.
Có những người khi lên cơn thay đổi sắc mặt dễ thấy, tự nhiên mặt đỏ lên bắt đầu đập phá, qua hết cơn trở lại bình thường như không có bệnh.
Có những người hai mặt như một, nhẹ nhàng hơn, không làm hại người khác đó là trường hợp kết nghĩa anh em hoặc chị em thề kiếp nào cũng sống chung với nhau, cho nên khi một người thể xác chết trước, thể tâm linh không đi tái sinh mà cứ ở lại chung với người bạn để giúp đỡ họ, đó là các trường hợp ông đồng bà bóng, các người coi bói không do nghiên cứu sách vở mà ứng khẩu khi nói ra lúc trúng lúc trật, lúc nói trúng là thể tâm linh người chết thấy biết, lúc nói trật đoán mò là do thể tâm linh ấy đã xuất ra ngoài. Đôi lúc họ biết có cái gì kỳ lạ ở cơ thể họ, dấu hiệu thay đổi là ngáp và đổi nhịp thở.
Trường hợp em trai nhập vào chị :
Chuyện lạ xảy ra ở phòng mạch (Montreal). Một gia đình 4 người, một bà mẹ và 3 người con từ Ottawa, có hẹn trước lên Montreal xin được hướng dẫn cách tự chữa bệnh cao áp huyết. Sau khi hướng dẫn cho bà mẹ và 2 người con xong, còn lại một cô chị, tôi đo áp huyết ở mỗi bên tay, lúc thì áp huyết rất cao trên 190/110mmHg mạch 110, lúc đo lại, áp huyết chỉ 129/85mmHg mạch 82. Tôi đo đi đo lại lúc cao, lúc thấp, không phải máy sai, nhưng tôi cũng hơi thắc mắc, nên để ý đến sắc diện trên khuôn mặt bệnh nhân, khi áp huyết cao và áp huyết thấp có khác nhau gì không. Sau đó tôi dạy thở để làm hạ áp huyết khoảng 15 phút, áp huyết xuống 120/88mmHg mạch 72. Xong rồi, cô ngồi dạy được nửa chừng tự nhiên người co cứng, mặt tái xanh, mắt nhắm, rét run, tay chân co giật. Người khác nhìn vào tưởng đang giẫy chết do áp huyết tăng cao đột ngột hoặc trụy mất mạch. Tôi biết có chuyện lạ, một tay đỡ đầu cô nằm xuống rồi dùng ngón tay bấm huyệt Nhân Trung và Thần Đình, một tay bấm Nội Quan trái, và tôi quát lên : Xuất ! xuất ra khỏi người này ngay.!.
Bỗng dưng cô vừa khóc vừa nói một tràng tiếng lạ nghe âm như tiếng Miên, người ta gọi là tiếng cõi âm. Tôi bảo : Ngươi hãy nhìn xem ta là ai ? Muốn nhắn gì thì nói tiếng Việt, rồi xuất ra khỏi người này đi.
Cô đổi giọng nói như một thanh niên, cô mở mắt quay đầu sang phải nhìn tìm bà mẹ, lấy tay vẫy bà lại rồi nói : A má , a má ơi, con lạnh qúa, con mất nhà dồi, a má ơi cứu con…... rồi khóc bù lu bù loa. Cũng may các phòng mạch bên cạnh, các bác sĩ nghỉ hè, nên không có ai hiểu lầm lỡ gọi 911 đến sẽ phiền lắm, tưởng bệnh nhân đang bị thầy thuốc hành hạ la hét làm bệnh nhân phải khóc .
Đằng sau lưng tôi bà mẹ nói với 2 người con rằng : Thằng Hải nhập vào chị nó.
Bà nói tiếp : Thằng Hải con trai tôi nó đi làm thủy lợi bên Việt Nam bị chết đuối lâu rồi mà cứ nhập vào chị nó hoài, khiến con nhỏ không đi làm ăn gì được.
Tôi khuyên thằng Hải : Hãy tha cho chị ngươi, đừng sống vất vưởng bám theo chị ngươi nữa, chỉ làm khổ cho cả nhà. Hãy nghe lời khuyên của ta, mẹ ngươi đưa vong linh ngươi vào chùa, có chỗ ăn ở nương tựa, theo Phật tu hành để về với Phật, còn hơn là sống lang thang vất vưởng khổ sở không nhà cửa, đói rét lạnh mà không ích gì. Nếu bằng lòng theo lời ta, thì xuất hồn ra ngoài, đừng theo chị ngươi nữa, có chịu không.
Nó gật đầu, thôi khóc, chắp 2 bàn tay cúi lạy tôi . Tôi quay sang nói với bà mẹ, ngày mai bà đem hình nó nhờ thầy trụ trì chùa rước vong của nó vào chùa cho quy y theo Phật, đặt pháp danh cho nó. Nó nghe thế lại chắp tay cúi lạy tôi lần nữa.
Cả nhà mừng rỡ khi biết nó nghe lời tôi khuyên. Bà nói gia đình đã bao nhiêu năm nhờ đến nhiều Thầy pháp trục nó xuất ra khỏi chị nó mà không được. Sao Thầy hay qúa chỉ khuyên nó mà nó nghe lời Thầy mới lạ.
Trường hợp thay hồn đổi xác : Là trường hợp hi hữu, thân mạng hết, thọ mạng và phước mạng còn dư, người này có thể sống thêm với thể xác cũ kéo dài thân mạng được, nhưng cơn ngủ sâu họ rời bỏ thân xác lâu, khi quay về xác đã chôn, nếu họ may mắn tìm được một thân xác có nghiệp mạng hết, phước mạng hết, thọ mạng còn dư vừa mới chết đi, họ nhập vào mượn xác sống cho đến hết số mạng của mình, họ sống lại hoàn toàn không biết đến cha mẹ anh em thân thuộc của người cũ, họ đòi về nhà họ ở với gia đình của họ.
Nhập xác do bùa ngãi :
Là những thể tâm linh vất vưởng chưa đi đầu thai được do bị hãm hại chết, số mạng chưa dứt, bị những người có quyền năng sai khiến bằng bùa ngãi, cho nhập vào người này người kia để quấy phá vụ lợi. Hoặc có ai do bị cơn sốc tâm thần phát điên, họ thừa cơ nhập vào sinh ra nói lảm nhảm, nói, nghe, viết hai ba chuyện cùng một lúc, không đầu không đuôi, người nghe không hiểu, thể thần, thể ý nhập thường xuyên nên tính tình, tư tưởng của họ bị thay đổi luôn, nói và làm xong đều không nhớ không biết gì cả.
Thần giao cách cảm :
Người được khai mở nhãn thông, nhĩ thông do bất kỳ một lý do gì như tu luyện, té ngã, tai nạn va chạm thần kinh, thiền hay thôi miên…tần số phát sóng của luân xa nơi tuyến thùy hoạt động tạo ra tần số rung trung gian dễ liên lạc được với các tần số của cõi giới tâm linh, họ trao đổi bằng thể ý, họ thấy được, nghe được chứ không phải bị nhập, nên họ vẫn tỉnh táo như người bình thường, họ chỉ chuyển đạt lời yêu cầu của các thể tâm linh người chết cho người thân còn sống, hoặc ngược lại. Vì truyền thông bằng thể ý nên thời gian và không gian có cách xa cũng như thấy ở trước mắt không có gì trở ngại.
Thí dụ có một bà mẹ nhận được giấy báo tử của con trai tử trận bên Lào, đến nhờ một người có quyền năng xem con bà thực sự còn hay đã mất. Ông bảo tôi thấy nó còn sống, đang ở một căn hầm giam chung với nhiều quân nhân khác ở bên Lào. Bà ta hỏi nó có về được không. Ông trả lời được, từ 3-6 tháng, qủa nhiên tháng thứ tư con bà trốn thoát và về được đến nhà.
Người ta nhờ những người có khả năng thần giao cách cảm gọi là nhà cảm xạ học đi tìm hài cốt, tìm nguồn nước uống, tìm nguồn quặng mỏ để khai thác. Ngược lại, có những thầy chữa bệnh có khả năng nhãn nhĩ thông, được các cơ thể tâm linh nhập nhĩ nói vào tai cho biết. Một hôn thầy Ba ở làng Quảng Ngãi đang làm ruộng, ông nghe trong tai có người nói : Vế ngay, có người bị rắn cắn đang chờ ông ở nhà. Ông ta về, qủa nhiên ông đã cứu kịp thời cho nạn nhân khỏi chết.
Trường hợp đồng cốt :
Đồng cốt có loại thật loại dởm .
Loại dởm là giả mượn thần thánh để lừa bịp ăn tiền. Loại thật là ông thầy cho một thể tâm linh khác mược xác một lúc để gặp gỡ nói chuyện với người thân còn sống, khi hai bên nói chuyện, ông thầy không biết. Hoặc người thầy làm trung gian cho thể tâm linh nhập vào một người lạ khác không quen biết gọi là người ngồi đồng, thể tâm linh nhập vào gọi là cốt. Đồng có khi là nam, mà cốt nhập vào có khi là nữ, nói giọng nữ, và có những thói quen cử chỉ cũ của cốt khi còn sống hay làm để người thân dễ dàng nhận ra, cốt người già nói giọng già, cốt người trẻ nói giọng trẻ như hồi còn sống. Nếu đồng là người có tật hay nói cà lăm, không biết ngoại ngữ, nhưng khi cốt nhập vào là người ngoại quốc thì cốt nói tiếng ngoại quốc không có gì trở ngại, cốt tầu nói tiếng tầu, cốt tây nói tiếng tây…Tại sao lại được như thế.
Bởi vì 7 thể tâm linh của người đồng xuất ra ngoài, đứng cạnh đó, 7 thể tâm linh của cốt nhập vào thân xác của đồng, nên mọi hành vi cử chỉ lời nói là của cốt, người thầy dởm không thể nào làm được.
Đồng cho mượn xác để cốt nhập vào, nhưng nếu thể thần của đồng mạnh, thì cốt không thể nhập vào được, nhưng nếu thể thần của đồng qúa suy yếu, chẳng những cốt dễ nhập mà cốt muốn chiếm đoạt thể xác luôn, nếu người thầy không có năng lực trục cốt ra được, đồng sẽ trở thành điên, trở thành người trung gian cho nhiều cốt muốn nhập vào, nói đủ thứ tiếng, đặc biệt có thứ ngôn ngữ trên thế gian không có, gọi là tiếng cõi âm giữa các cốt nói chuyện với nhau qua miệng của đồng, thế gian gọi là người điên mắc bệnh tâm thần đa diện, gặp trường hợp này, đem đồng vào chùa nhờ chư tăng cho các cốt quy y, hướng dẫn vong linh của các cốt chuyển nghiệp, đồng cũng quy y để cốt khác không nhập vào nữa.
Đức Phật thường nói tam thiên đại thiên thế giới, vậy nó ở đâu ?
Nói về số lượng để chúng ta có thể hình dung ra được, thì thế giớ chúng ta đang ở giống như là một qủa sung, quanh một chùm sung trên một cây sung, chung quanh còn hàng vạn cây sung khác ở khắp nơi trên thế giới. Vậy một qủa sung so với những qủa sung khắp thế giới có thấm vào đâu, đếm sao cho hết. Nói theo khoa học, qủa địa cầu chúng ta đang ở trong một thái dương hệ, trong nhiều thái dương hệ của một giải ngân hà trong nhiều giải ngân hà khác, chúng ta làm sao biết hết được.
Nhưng kinh Phật cũng lại nói : Vạn pháp do tâm sanh, vạn pháp do tâm diệt. Tâm sinh tâm diệt đều do ý tạo ra. Chư Phật chỉ cho chúng ta cách tu tâm dưỡng tánh để thành Phật, chứ chư Phật không hóa phép cho chúng ta thành Phật được. Người nào có tâm lành, hành động thiện lành đã là tâm Phật, người nào có tâm ác, hành đông ác là tâm chúng sinh. Như vậy thành Phật cũng do tâm, thành chúng sinh cũng do tâm. Phật chỉ có trong tâm mình chứ ngoài tâm không có Phật. Phật là một người giác ngộ hoàn toàn, là những vị đã tu chứng, thể hiện được hạnh nguyện bi-trí-dũng của mình cho người khác noi theo và mình cũng sẽ thành Phật nếu ý mình muốn và phải thực hành theo hạnh nguyện của một vị bồ tát nào mà mình thấy thích hợp để rồi sau mình sẽ thành Phật như ngài, chứ không phải mình không làm gì, chỉ cầu nguyện ngài ban phép hóa mình thành Phật. Những ý tưởng và hành động của mình thực hành cho đến chỗ chân thiện mỹ tuyệt đối thì gọi là Phật, nếu ý tưởng bất hảo gọi là chúng sinh thì phải bị trầm luân hụp lặn trong bể khổ nhiều đời nhiều kiếp.
Ý tạo ra nghiệp lành nghiệp dữ, nên điều khiển ý rất khó, vì một ý sẽ inh ra vạn ý, vạn pháp không bao giờ dừng nghỉ do tham sân si mới tạo ra nghiệp, nghiệp tạo ra phước mạng, thân mạng và bệnh nghiệp mỗi người mỗi khác gọi là luật nhân qủa. Công cụ tạo ra nhân qủa là Danh và Sắc.
Phần tâm linh có tâm cảm nhận, có ý dẫn dắt, biết phân biệt hơn thua, cố chấp. Có 2 loại ý khác nhau. Ý của Danh và ý của Sắc. ý thuộc một trong 6 căn nhiễm 6 trần là ý của thân. Còn ý của phần tâm linh là vô hình chỉ huy và liên kết mọi hoạt động của tư tưởng từ qúa khứ tiền kiếp đến hiện tại ở đời này và tương lai ở đời sau…...
Tam thiên đại thiên thế giới là một ý để diễn tả Phật nơi nào cũng có, cõi của các ngài ở hoàn toàn là lý tưởng. Chúng ta có thể tu để về ở các cõi Phật nào mà chúng ta muốn. Nói vậy mà không phải vậy. Phật không ở nơi nào ngoài tâm. Chúng ta muốn đến cõi nưóc của một vị Phật nào để ở, thì chính tâm chúng ta phải tu luyện theo hạnh nguyện của vị Phật đó đã làm để rồi sẽ thành Phật như các ngài, nhưng thời gian phải mất bao lâu còn tùy thuộc vào chúng ta, từ một sát na đến a tăng kỳ kiếp, tập luyện đến bao giờ ý dừng, tâm định, như tu theo pháp môn tịnh độ, chỉ đọc một câu niệm Phật mà nhất tâm bất loạn thì thành Phật, hay như ngồi thiền mà tâm rỗng như bọt biển, bản chất là nước, tự nó tan vỡ ra trở về với nước biển, nhà thiền gọi là nhập cõi niết bàn tịch tịnh..
Như vậy thành Phật cũng do ý, không thành Phật mà thành chúng sinh cũng do ý. Kiếp sau không muốn làm người nghèo khổ mà muốn làm người giầu sang cũng do ý hoặc không muốn làm người ở cõi ta bà, muốn lên cõi niết bàn cũng do ý…nhưng được hay không còn do nghiệp mình đã tạo ra lành hay dữ, vì ý sinh vạn ý, vạn pháp, không bao giờ dừng nghỉ đều do tâm tham, sân, si mê hoặc chuyên cầu lợi cho mình khiến cho mình tạo ra nghiệp xấu thì làm sao có thể thành Phật. Muốn thành, tức là đấng đã giác ngộ, phải làm sao tu được câu Vạn pháp do tâm diệt.
Cũng với ý này, nên đông y áp dụng vào phương pháp chữa bệnh có thể chữa được những bệnh cả về thân xác lẫn phần tâm linh.
Trong kinh sám hối có câu : Tâm diệt rồi tội liền tiêu
Vậy theo triết lý Phật giáo, con người chỉ có hai phần luôn luôn dính liền với nhau khi còn sống là thể xác và tâm linh. Phần tâm linh có tâm làm chủ, hay phân biệt so sánh hơn thua, cố chấp gọi là Danh. Phần thể xác gọi là Sắc. Hễ có Danh-Sắc thì có lục nhập qua 6 căn của thân như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nhiễm 6 trần, như mắt tiếp xúc với sắc thấy vạn vật, tai tiếp xúc với nghe, mũi tiếp xúc với ngửi mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với chạm xúc, ý tiếp xúc với vạn pháp nghĩ đến cái này cái kia…Nhưng nếu con người không có phần Danh là tâm tham dự vào phần Sắc để phân biệt đánh giá đẹp xấu cho mắt, đánh giá lời nói âm thanh cho tai, đánh giá thơm thối cho mũi, đánh giá vị ngon dở cho lưỡi, đánh giá mềm mại thô cứng, nóng lạnh cho thân khi chạm xúc, đánh giá tốt xấu lành dữ cho ý.. thì không phải là con người phàm phu tục tử nữa rồi.
Ngược lại, người tu phải đạt đến trình độ luyện tâm tách Danh ra khỏi Sắc, mắt có nhìn mà không phân biệt đẹp xấu, tai có nghe nhưng không để ý khen chê, mũi có ngửi nhưng không cần biết mùi, lưỡi có nếm nhưng không biết vị, có chạm xúc mà không để tâm, ý không nghĩ tốt xấu…. tu được như vậy đã là thánh hiền, khổ nỗi kẻ phàm phu gọi những vị này là ngu, cho nên người tu vừa hiền vừa ngu là bước đầu tu học (Kinh Hiền Ngu)
Bất cứ lối tu nào cũng vậy, như tu tánh luyện mạng, muốn có kết qủa tốt cần phải giữ giới , rồi định, thì mới có huệ.
Giới của tu tánh là luyện tâm, cho tâm dừng, ý dừng, không phân biệt, bỏ tâm chấp, tu tâm xả.
Định của tu tánh là tinh tấn.siêng năng thường xuyên không sao lãng, tu luyện tâm mãi mãi giống như kẻ hiền ngu.
Huệ là kết qủa của sự tu luyện hết tham sân si không bị ảnh hưởng của thất tình lục dục.
Về phương pháp chữa bệnh của đông y khí công là tu tánh luyện mạng.
Giới của tu mạng là điều hòa hơi thở, tập luyện hơi thở cho chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều, bình thường, thở ít hơn 18 hơi trong một phút, khí công tập luyện 6 hơi trong một phút. nếu tập được hơi thở như thế tâm tánh sẽ điềm đạm, nhu mì, không bị sân giận làm rối loạn nhịp thở…
Định của tu mạng là định tâm hay trụ ý, cột tâm tại một điểm, hoặc đan điền thần, đan điền tinh, hoặc Mệnh Môn, hoặc Thiên Môn hoặc Ấn Đường tùy vào mục đích để vừa điều tâm, điều khí, điều chỉnh sức khỏe để chữa thân bệnh, tâm bệnh. Điều hòa hơi thở ngoài công dụng giúp tính khí điềm đạm để tu tâm, còn có công dụng điều hòa sự khí hóa chức năng của lục phủ ngũ tạng, tạo nhịp độ sinh học đều đặn, tăng cường oxy, loại bỏ tế bào cũ, nuôi dưỡng tế bào mới, giúp thân thể luôn luôn khỏe mạnh không bệnh tật.
Công việc của Định là chăm chỉ luyện tập đều đặn thường xuyên, không lo sống chết.
Huệ là kết qủa tu luyện, tập luyện, tâm bình an, thân khỏe mạnh không bệnh tật.
Khi thân hết bệnh, tâm ưa làm điều lành, dùng thân này để tu cải nghiệp, tạo thêm nhiều nghiệp lành như giúp đỡ những người khác cùng tu tạo thêm phước, thì thành Phật ngay kiếp này, mình sống không nhiễm lụy trần tục không khác gì đang sống cảnh niết bàn tại thế, và khi hết phước nghiệp, thọ mạng hết, với tâm bồ tát thì ở kiếp nào cũng còn tâm thức bồ tát, còn dục tâm là do tinh cha huyết mẹ tạo nên, khi tái sanh, do ý lành dẫn nghiệp lành được vào một trong cõi nước của Phật do hạnh nguyện mà nó đã chọn theo vị bồ tát nào hay của vị Phật nào, thì đó là sự tái sinh của một người tu.
Còn người tu chưa phát tâm bồ tát, nhưng khi thân bệnh, tâm vẫn bình thản, xem bệnh là nghiệp, cần phải tu tâm làm lành để cải nghiệp, khi hết nghiệp, họ xuất hồn đi theo một vị bồ tát, thường là Bồ tát Quán Âm, vì ý họ lúc nào cũng nghĩ đến tịnh độ. Khi phần tâm linh rời khỏi xác trong giấc ngủ sâu, họ đi đến cõi Phật để tu tiếp. Họ nghĩ cuộc đời họ vẫn liên tục tu hành cầu đạo thành Phật. Thời gian tu học ở cõi Phật do ý dẫn đã rời khỏi xác lâu, xác đã chết họ cũng đâu biết được, có khi giấc ngủ như giấc mộng Nam Kha, mơ thấy mình sinh ra, lớn lên, lập gia đình, có con cháu đầy đàn, rồi tỉnh giấc mới biết là mơ chưa đủ thời gian chín một nồi cháo kê đang nấu dở dang, hay giấc mơ như Đỗ Quyên hóa quốc, cuộc đời như một giấc mộng dài. Ngược lại, thực cũng như mơ, người tu dùng thân Ý đi đây đi đó chứ không dùng thân xác, họ vào cõi của thân Ý mà đến Phật, sinh hoạt bằng thân Ý, quên thân xác mất rồi, lúc đó xác của họ mặc tình người thân muốn làm gì thì làm.
Có những người khi còn sống, thân Ý đi đến một chỗ quen thuộc nhất định, nhiều lần, là cõi của ý, mà họ tưởng là mơ, nhưng khác với mơ, mơ khi tỉnh dậy quên hay nhớ không rõ ràng mạch lạc, còn đi bằng thân ý, tỉnh dậy nhớ rõ ràng mạch lạc, khi cần thiết vẫn có thể đến lại những nơi ấy. Nơi thân ý đi có thể là một cõi ngoài qủa địa cầu, ở một hành tinh khác, thế giới khác, khi có duyên được đi qua, mình cảm thấy cảnh vật quen thuôc như mình đã từng đến. Như vậy ý dẫn tâm sinh vạn pháp, có hư có thực. Khi tâm định, ý dừng, thì vạn pháp có cũng như không. Không hư không thực, sắc tức thị không, không tức thị sắc, nó vẫn là nó. Từ tâm đối đãi người phàm phu thấy núi là núi, sông là sông, mới tu xem cảnh như huyễn, thì núi không phải là núi, sông không phải là sông, khi hết đối đãi, biết dừng lại hiện tại, không tiếc qúa khứ, không nghĩ đến tương lai chưa tới, chỉ cần an trú trong hiện tại bình an, thì núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, chỉ vì do ý sinh ra thế này thế khác.
Chính vì tâm không định, ý không dừng, do tham sân si lôi cuốn từ vô thỉ, tạo ra tâm thức xấu mới làm cho phần tâm linh đi theo con đường lục đạo luân hồi, khiến cho mình tái sinh theo nghiệp xấu rơi vào cảnh khổ mà không thoát được khổ sinh già bệnh chết..
Đỗ Đức Ngọc (Nguồn : TGVH)
(còn tiếp phần 3)
0 comments:
Post a Comment