Hận thù là một trong những nghiệp ác
mà mỗi người đã tự tạo ra. Tại sao có sự hận thù giưa người này với
người khác, giữa bộ tộc này với bộ tộc khác, giữa quốc gia này với quốc
gia khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Hận thù phát xuất từ đâu.
Quan sát gần, sẽ thấy hận thù phát khởi
từ tham vọng của con người. Thật vậy, hầu như mọi cuộc
xung đột, sát phạt nhau trên cuộc đời này đều bắt nguồn từ lòng tham
không đáy của con người ; kết quả là người được thì sanh tâm kiêu ngạo,
người thua thì sanh oán thù và từ nỗi oan hận ấy gieo mầm cho tấn bi
kịch trả thù tiếp theo, cứ như vậy mà mối hận thù sẽ tiếp diễn không
ngừng trong nhân loại.
Dưới tuệ giác của Đức Phật, hoặc các vị
thiền sư đắc đạo, từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, tất cả moi người tạo
ra không biết bao nhiêu là tội lỗi, gây ra không biết bao nhiêu là hận
thù. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy rằng từ vô thỉ kiếp, do vô minh
chỉ đạo mà con người tạo ra tất cả các tội ác và gây hận thù giữa người
này với người khác, giữa mọi người trong cùng một gia đình và giữa nước
này với nước khác. Hãy nhớ nghĩ lại xem từ vô thỉ kiếp, chúng ta đã
từng làm người, làm thú, làm thần, làm quỷ, v.v… Có thể nói gần như
chúng ta đóng đủ tất cả các vai trên sân khấu cuộc đời, hết làm việc
thiện lại làm việc ác, hết làm ác rồi lại làm thiện; cứ như thế mà chúng
ta thay hình đổi dạng, lang thang trong kiếp luân hồi sinh tử.
Sự sống của loài người, từ khởi thủy là đơn bào tiến lên đa bào, cho
đến hình thành thân tứ đại của con người; trải qua quá trình sinh sống
dài lâu đó, con người đã tranh giành và sát hại lẫn nhau. Có thể hiểu
nghĩa “Vô thỉ kiếp” theo Phật là như vậy. Ngay từ thời bắt đầu có sự
sống lúc mới hình thành vũ trụ, đã có sự cạnh tranh để sinh tồn giữa các
loài; nói cách khác, loài này sống bằng cách sát hại loài khác, loài nọ
phải chết đi cho sự tồn tại của loài khác nữa, v.v… Ý này được kinh
Pháp Hoa diễn tả rằng các loài ăn nuốt lẫn nhau để mà sống.
Chúng ta có thể tạm chia sự sống của muôn loài thành hai nhóm là loài ăn
cỏ và loài ăn thịt. Thử nghĩ xem đối với các loài ăn cỏ và đối với cỏ
cây trong thiên nhiên, chúng ta có đối xử hoàn toàn tốt với chúng hay
không, chúng ta không gây oán thù với chúng hay không. Cỏ cây dĩ nhiên
có sự sống và ở một chừng mức nào đó, tình trạng sống của cỏ cây cũng
chính là tình trạng sống của con người. Loài người vì vô minh ngăn che,
nghĩ rằng cần phải cạnh tranh, phải tiêu diệt các loài khác để sống và
cũng chính từ đó, con người tiêu diệt luôn cả môi trường sống của chính
họ. Ngày nay, khoa học đã chứng minh cho thấy loài người phá hủy môi
trường sống nhiều nhất so với các loài khác. Loài người được đánh giá là
tối linh, nhưng cũng là loài cực ác so với các ác thú như hùm beo, chó
sói; vì xét kỹ, chúng chỉ ăn thịt các con thú khác khi đói, còn loài
người giết nhau, hay giết các loài khác không phải chỉ vì đói. Con người
săn giết các loài thú để lấy da xương của chúng làm đồ dùng cho giới tự
nhận là quý phái, hoặc làm đồ trang sức, thậm chí săn bắn, câu lưới để
giải trí, thỏa mãn ác tính của họ. Và loài người giết nhau phần lớn vì
hận thù.
So với các loài khác, văn minh của loài
người lên đến tột đỉnh thì tội ác của loài người cũng tiến đến tột đỉnh;
chỉ có loài người mới tàn sát lẫn nhau vì tham vọng, vì sự khôn ngoan
thủ đoạn của họ.
Ngài Vạn Hạnh Thiền sư có bài kệ rất hay
nói lên hận thù chồng chất thật khủng khiếp:
Hàng ngày trong bát canh ăn
Quán sâu như biển hận bằng non cao
Muốn hay binh lửa thế nào
Lắng nghe quán thịt tiếng gào đêm thâu.
Từ khi Đức Phật còn là thái tử, trong
lúc tham dự buổi lễ hạ điền, Ngài đã thấy những luống cày xới đứt những
con trùn, rồi bầy quạ bay sà xuống bắt ăn những con trùn bị cày xới,
thấy vậy, người thợ săn bắn con quạ, trong khi sau lưng anh ta có con hổ
rình chờ để ăn thịt anh. Đó là hình ảnh sống động nhất cho thấy sự sống
của các loài tranh giành, ăn nuốt lẫn nhau, tạo nên hận thù không bao
giờ dừng lại.
Chứng kiến cảnh sống bi đát muôn đời như
vậy, thái tử đã nung nấu tâm nguyện tìm cách giải thoát cho muôn loài
ra khỏi cuộc sống sinh tử khổ đau. Và đến khi Ngài thành đạo ở Bồ Đề Đạo
Tràng, Đức Phật đã tìm được phương cách hóa giải hận thù khổ đau. Trên
bước đường giáo hóa độ sinh, Ngài chỉ dạy rất nhiều phương thức hóa giải
thù hận.
Chúng ta thấy rất rõ cuộc sống hận thù
sẽ làm con người tràn ngập khổ đau và dẫn họ ngày càng xa rời cuộc sống
an lạc giải thoát. Vì vậy, hóa giải hận thù là đi ngược chiều sinh tử,
trở về nguồn cội là Niết bàn. Nếu thuận đường sinh tử, mỗi ngày chung ta
sẽ tạo việc ác nhiều hơn, tâm hận thù lớn hơn; nhưng tu hành là đi
ngược chiều sinh tử, làm sao cho thù hận, nghiệp ác giảm bớt, cho đến
dứt sạch, để chúng ta không thù hận giữa cuộc sống hận thù, tạo thành xã
hội an lạc. Nói cách khác, chuyển đổi Ta bà thành Tịnh độ của Phật ở
giữa nhân gian này.
Đức Phật dạy rằng mọi người đều có thể
tạo cuộc sống an lạc, hạnh phúc, giác ngộ, giải thoát; nhưng tại sao
không chịu xây dựng cuộc sống tốt đẹp như thế mà lại tự làm cho mình khổ
đau và làm người khác khổ đau, mà không biết rằng làm cho người khác
khổ đau chính là làm cho mình khổ đau. Phải hóa giải mọi vướng mắc xấu
ác, mọi thù hận trong suy nghĩ, trong lời nói, trong việc làm, trong
sinh hoạt hàng ngày để mình và người thoát khổ, luôn sống trong an lạc
giải thoát; đó là mục tiêu mà Đức Phật đã thành tựu trọn vẹn.
Đức Phật cho biết người đặt mục tiêu này
và sống với mục tiêu này đều lên Niết bàn và xây dựng được Tịnh độ; đó
chính là các vị Thánh La hán đều an trụ Niết bàn, vì đã hóa giải được
mọi hận thù ở thế gian này. Các Đức Như Lai chẳng những lên Niết bàn,
làm sạch tâm các Ngài mà còn trong sạch hóa tâm của nhiều người khác,
tức là kiến tạo được Tịnh độ. Niết bàn là cảnh giới làm sạch được hận
thù của chính mình và Tịnh độ là thế giới trong sạch của chúng ta và
cũng dành cho những người cùng hạnh nguyện.
Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ có Tịnh
độ phương Tây của Đức Phật Di Đà; nhưng Đức Phật Thích Ca cho biết trong
khắp mười phương, Đức Phật nào cũng có Tịnh độ riêng. Tịnh độ đó ra
sao. Tất cả các Đức Phật sau khi chứng Niết bàn, không an trụ luôn trong
Niết bàn đó, nhưng các Ngài dấn thân cứu đời, giúp người, nghĩa là hành
Bồ tát đạo.
Chúng ta cứ tưởng những người phát tâm
Bồ đề, hành Bồ tát đạo cho đến chứng quả Vô thượng Bồ đề là chấm dứt con
đường tu hành. Nhưng đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy khác nữa, thấy
những vị Bồ tát đã thành xong quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vì
thương nhân gian mà các Ngài sinh lại cuộc đời này; đó là Bồ tát từ quả
hướng nhân, khác với Bồ tát từ nhân hướng quả như chúng ta thường nghĩ.
Bồ tát từ nhân hướng quả thì tiến tu từ
thập trụ, thập hạnh, đến thập hồi hướng và trong quá trình thực hiện Bồ
tát hạnh như vậy, phần phá vô minh, phần chứng Pháp thân, tiến lên Đẳng
giác, Diệu giác Bồ tát, gọi là Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát, rồi tìm nơi sanh
lại để giáo hóa chúng sanh. Nhưng theo kinh Pháp Hoa, có thêm Bồ tát từ
quả hướng nhân là người đa thành tựu quả vị Phật, hiện thân lại để cứu
độ chúng sinh. Như vậy, đối với Bồ tát từ nhân hướng quả, kết quả của họ
như đã nói là phần phá vô minh, phần chứng Pháp thân; nghĩa là phần tốt
có và phần xấu cũng còn. Cho nên tu Bồ tát đạo, chúng ta thấy có người
tâm tánh rất tốt và thực hiện được nhiều việc tốt trong cuộc sống, nhưng
người tốt như vậy cũng còn ít.
Bồ tát Thập trụ hơn Bồ tát Thập tín và
Bồ tát Thập hồi hướng thì trên Bồ tát Thập hạnh. Cuộc đời của các Bồ tát
cứu nhân độ thế không giống nhau, có Bồ tát được một, hai thành quả cho
đến có vị được chín, mười phần tốt đẹp. Như vậy, định vị được Bồ tát
thập tín, thập trụ, thập hạnh, thâp hồi hướng có pháp tu giống nhau,
nhưng đạt được kết quả thì khác nhau.
Bồ tát thập tín, thập trụ và thập hạnh
trải qua 30 chặng đường chính yếu là lợi hành, tức thực hiện phần tự tu
làm trong sạch mình là chính. Nhưng lên Bồ tát thập hồi hướng, phải điều
tiết thế nào cho thích hợp. Điều tiết của Bồ tát thập hồi hướng, trong
đó có hồi hướng Vô thượng Bồ đề, hồi hướng Pháp giới chúng sinh và hồi
hướng Chơn như thật tướng. Trong ba pháp này, Bồ tát luôn điều chỉnh,
không phải tu pháp nào nhiều hay ít, nhưng pháp nào cần làm trước, điều
nào chưa cần thì làm sau.
Khởi đầu, Bồ tát thập hồi hướng nhắm đến
mở mang trí tuệ trước; vì Đức Phật dạy rằng nếu tu năm pháp Ba la mật
trong vô lượng kiếp, nhưng thiếu trí tuệ chỉ đạo, sẽ bị mất trắng. Hoặc
tu suốt cả đời, nhưng phạm phải một sai lầm nhỏ thì mất tất cả, mà người
ta thường nói rằng đốn củi ba năm, thiêu sạch trong một giờ, hay một
đốm lửa nhỏ đốt một rừng công đức đã tu tạo. Đó là Bồ tát thiếu trí tuệ
làm việc chẳng được lợi lạc gì, ví như công dã tràng se cát biển. Vì
vậy, Bồ tát thập hồi hướng lấy Vô thượng Bồ đề làm chính, còn những việc
khác là phụ. Có trí tuệ chỉ đạo, thấy việc đáng làm thì làm, việc không
nên làm thì tránh, người không đáng độ thì không độ, không phải ai cũng
độ được. Điển hình như tấm gương độ sinh của Đức Phật, Ngài độ Vô Não
là người rất ác, nhưng suốt cuộc đời giáo hóa của Đức Phật, ngoài Vô Não
ra, không có người ác thứ hai được Phật độ mà đắc quả vị A la hán, hoặc
Phật chỉ độ một Sunita hốt phân đắc quả A la hán, độ một cô gái buôn
son bán phân trở thành Liên Hoa Sắc Tỳ kheo đắc A la hán. Vì rõ ràng Đức
Phật với tuệ giác soi sáng thấy rõ tiền kiếp của những người này là gì
và mối quan hệ giữa họ với Đức Phật như thế nào, nên
Ngài giáo hóa họ một cách dễ dàng.
Vì vậy, người tu đặt trí tuệ trên hết; nếu trí tuệ chưa khai mở, phải
cẩn thận trên bước đường hành đạo và phải nương vào những người có trí
tuệ như Phật, Bồ tát lớn. Ngay cả các vị Thánh La hán còn phải dè dặt,
không dám xuất hiện độ đời là vậy. Đối với chúng ta, bước theo dấu chân
Phật, Vô thượng Bồ đề là đỉnh cao phải hướng đến để thấy được nhân duyên
giữa ta và chúng sinh từ vô số kiếp, mới hóa giải tận gốc rễ hận thù
mình đa gây ra. Ví dụ nhớ lại kiếp xa xưa, ta từng làm rắn, họ từng làm
chuột đã bị ta nuốt trọng, hoặc ngược lại, ta làm con nai hiền lành bị
chó sói ăn thịt, v.v… Dùng trí tuệ kiểm tra, thấy tâm lượng của chúng ta
từng phần khác nhau mà nhận ra từng kiếp sống của chúng ta khác nhau,
để theo đó bắt đầu hóa giải hận thù giữa ta với người. Không thấy hận
thù tận gốc, hóa giải sai lầm sẽ gây thêm thù oán khác nữa.
Vị trí của Bồ tát Thập hồi hướng mới hóa
giải được hận thù, vì đã có trí tuệ soi sáng. Từ đó, nhìn lại pháp giới
chúng sinh, tuy nhiều, nhưng có thể phân chia thành ba loại để hóa
giải. Một là chúng sinh mà ta đã từng gây thù hận với họ. Hai là chúng
sinh mà ta từng gieo duyên lành với họ. Ba là chúng sinh mà ta chưa từng
gặp gỡ, chưa từng quen biết trên cuộc đời.
Có trí tuệ, ta thấy rõ trong giảng đường
này, ai là người mà ta đã gây ác nghiệp với họ trong kiếp quá khứ, nên
ngày hôm nay tu chung trong một ngày an lạc, họ cũng hầm hầm với ta, ta
và họ đều không thể an lạc, vì nhìn thấy nhau là ghét rồi. Hoặc nhìn
thấy họ là ta sợ rồi, vì đời trước, ta là cóc nhái, họ là rắn độc, ta
từng bị họ nuốt trửng rồi.
Có trí tuệ quán sát tận ngọn nguồn của
sự hận thù, mới hóa giải được. Ta nợ họ, hay họ nợ ta trong kiếp quá
khứ. Họ nợ ta, ta tu hành, hỷ xả dễ dàmg; nhưng ta nợ họ mà bảo họ xóa
bỏ rất khó. Giáo pháp của Đức Phật có công năng hóa giải tất cả hận thù
của chúng sinh để đưa lên Niết bàn, lên Cực lạc.
Điều chắc chắn rằng muốn hóa giải hận
thù, ta phải tập họp cho được đạo quân Hiền thánh, vì việc hóa giải
không dễ dàng chút nào. Chỉ có đạo quân Hiền thánh mới hóa giải được hận
thù, cần suy nghĩ và ghi nhớ như vậy, không phải nghe là làm được. Muốn
trừ ác ma, phải có thế lực của Hiền thánh. Biết như vậy, chúng ta mộ
tập đạo quân của Hiền thánh trên bước đường tu của chính mình, thì không
hóa giải mà thực là hóa giải; vì tu hành đúng pháp, sẽ hóa giải được
mọi khó khăn, mọi hận thù.
Riêng tôi, từ thuở nhỏ phát tâm tu hành
cho đến ngày nay, tôi biết mình không làm được gì, nên tôi thường tâm
niệm câu “Hãy đợi đó”, tất cả hận thù hãy đợi đó, hãy để đó, chờ ta tu
đắc đạo, ta sẽ hóa giải.
Các Phật tử không hiểu điều này, ham
muốn hóa giải hận thù càng sớm càng tốt, nhưng không hóa giải được mà
hận thù càng tăng thêm; vì không phải ta xin lỗi mà họ bằng lòng đâu.
Kinh Pháp Hoa gọi là thệ nguyện an lạc, nghĩa là hãy đợi đó. Ta biết ta
nợ họ, nhưng cũng biết mình không có khả năng trả nợ, nên ta phải tìm
cách làm ra tiền để trả nợ; dù có xin lỗi, năn nỉ, họ cũng không nghe,
vì trong đầu họ chỉ có tiền là nhất. Không có tiền trả nợ làm thế nào
hóa giải được hận thù này. Và tiền có được phát xuất từ phước báo, còn
nghĩ cách làm tiền bằng thủ đoạn gian xảo, lừa đảo là tạo thêm tội lỗi,
thấy được trước mắt nhưng mất liền. Phước không có, tiền hại mình; có
phước, tiền tìm mình.
Khả năng chúng ta không hóa giải đươc
hận thù, phải nỗ lực tu hành. Đầu tiên là hóa giải sự hận thù ngay trong
lòng chúng ta, hóa giải hận thù của người khác rất khó. Đa số người
không tu, nhưng cứ lo khuyên người khác tu, bản thân không làm việc tốt,
nhưng bảo người làm. Nhờ nỗ lực tu, chúng ta có trí tuệ, mới quán sát
được những người nợ chúng ta trong quá khứ, họ nợ tiền, hay nợ tình,
hoặc nợ mạng, tùy theo đó mà giải quyết. Còn tham vọng, tu sai, cứ thấy
người giàu có, học giỏi, có thế lực, mà tìm cách dựa dẫm họ để bắt nạt
người khác. Thấy người giàu có và cũng phải thấy mối quan hệ giữa ta với
họ. Đời này họ giàu do đã bố thí, cúng dường đời trước. Ta nghèo do
tham lam, keo kiết, bỏn xẻn, tạo nhiều nghiệp ác đời trước; nhưng nay
mang nghiệp ác này mà hóa giải người khác, là sai lầm lớn. Đối với tôi,
điều ngộ trước nhất là tìm con nợ của tôi để làm thân. Họ nợ mình nên
thương mình, kính trọng mình, chắc chắn mình nói họ nghe theo và mình
sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những sai lầm của họ.
Chính Đức Phật đã đi trên lộ trình này.
Tại sao Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời này, biết bao người theo Ngài và
hết lòng với Ngài. Điều này không có gì lạ cả. Đọc kinh Pháp Hoa, chúng
ta thấy rõ ý này. 500 vị Bồ tát trong hội Pháp Hoa mà đứng đầu là Bạt
Đà Bà La Bồ tát trong nhiều kiếp quá khứ, đã từng mắng chửi, nói xấu,
ném đá hại Phật, v.v… nhưng Ngài không những tha thứ cho họ, mà còn dìu
dắt họ tu Bồ tát đạo, chỉ bảo họ sống trong Chánh pháp; vì vậy mà trong
hiện đời, họ thương quý Phật, tuyệt đối theo Phật.
Hóa giải hận thù là hóa giải tâm xấu ác
trong chính mình, sẵn sàng tha thứ những người cố ý hay vô tình tác hại
mình, làm khổ mình. Hóa giải như vậy, ta tập họp được những người tốt
sống chết với ta. Và khi đã tập họp được những thiện tri thức, ta bắt
đầu hóa giải những người thù, người xấu, người oán trach ta. Đây cũng là
túc nghiệp quá khứ, nhưng nhờ có đạo quân Hiền thánh giúp ta, họ nói
thay cho ta, nên hóa giải được loại ác ma này. Điển hình là Đức Phật có
Hiền thánh chung quanh Ngài, gần là 1.250 vị Tỳ kheo đắc A la lan; đó là
Thánh chúng mà Đức Phật tập họp đầu tiên, kế đến, Ngài có thêm bát bộ
Thiên long chung quanh. Thực tế là từ hàng vua chúa như A Xà Thế, Ba Tư
Nặc, cho đến các quan lại, trưởng giả, cư sĩ trí thức và quần chúng đêu
kính ngưỡng Phật, nghe theo Ngài.
Với sự hiện diện của đạo quân Hiền thánh
kề cận bên Phật, dù cho ngoại đạo có bịa chuyện nói xấu để hạ uy tín
Ngài cũng không kết quả, vì đã có đạo quân Hiền thánh giải quyết tận
gốc. Sử sách còn ghi rõ tội ác của người Bà la môn đã giết con, rồi đem
xác con chôn phía sau tịnh xá để vu oan cho Phật đã hiếp dâm và giết con
ông. Vua Ba Tư Nặc không tin việc vu oan giá họa của ông này, vì uy tín
của Đức Phật quá lớn. Ý này thường được diễn tả rằng hoa sen không dính
nước, tội lỗi không thể đổ lên người tốt thực. Trên bước đường tu,
chúng ta phải nhận ra rằng người khác còn đổ được điều xấu cho ta, mặc
dù ta không tạo tội, vì ta chưa thực tốt. Chúng ta còn nghèo khó, mà
thích làm thân với nhà giàu là tự sát; vì ta đến với họ, họ mất mát cái
gì cũng khởi nghi ta trước tiên.
Vị trí của Đức Phật quá tốt, là Chuyển
luân Thánh vương, có bao nhiêu cung phi mỹ nữ hầu hạ, Ngài thản nhiên từ
bỏ ngai vàng, quyền uy, ngũ dục của thế nhân để tìm đường cứu khổ chúng
sinh. Với đức hạnh cao tột như vậy mà gán ghép cho Ngài tội hiếp dâm là
điều không ai chấp nhận được. Vua Ba Tư Nặc cho điều tra và chính người
được ông Bà la môn thuê làm việc sát hại con gái để vu khống Phật, đã
không chịu nổi việc ác này, nên ông đích thân đến tố cáo. Đức Phật dạy
oan ức không cần biện minh, vì đã có đạo quân Hiền thánh quá mạnh, người
bênh vực Ngài quá nhiều, người chống phá quá yếu kém. Vua kết án tử
hình ông Bà la môn, nhưng Đức Phật đã hóa giải bằng cách xin nhà vua tha
mạng cho ông ta, chỉ vì ông quá tham vọng, thấy vua kính trọng Tăng
đoàn và số người theo ông ta cũng bỏ đi, nên sanh ra oán hận Phật, bịa
đặt tội ác nhằm hạ uy tín Phật.
Chính ta tự hóa giải hận thù, không phải
người khác hóa giải; phải thấy oan nghiệp tiền kiếp thế nào giữa ta với
họ mà nay gặp lại, không phải vô duyên cớ mà có hận thù. Theo tinh thần
Đại thừa là biến khổ duyên thành lạc cụ. Biết là ác nghiệp của ta, quả
báo tới, ta mượn việc này để chuyển đổi mối quan hệ ác thành thiện. Lam
thiện thì dễ, nhưng hóa giải việc ác thành thiện không đơn giản.
Đời trước ta nợ họ, đời này họ mới theo đòi ta. Biết vậy, ta hóa giải
ngay trong lòng ta là chuyển được khi họ đòi; vì phước đức ta tạo lớn
rồi, nên họ đoi ta, nhưng người khác nhìn vào lại thấy họ nợ ta, không
phải ta nợ. Ta sẵn sàng tha thứ cho họ là hóa giải, không phải hóa giải
bằng cách xin họ tha thứ ta.
Tập họp Hiền thánh ở đâu. Đừng lầm rằng
gom người tốt cho mình, vì có ý đồ tập họp thiên hạ sẽ không tập họp
được ai cả; nhưng thực chất của sự tập họp thành công là “Vô tác diệu
lực”, nghĩa là chúng ta không kêu gọi, không dụ dỗ, nhưng ta tu hành tỏa
sáng đạo lực sẽ khiến cho người theo. Vì vậy, tập họp Hiền thánh ngay
trong tâm chúng ta và đuổi tất cả tà ma ngoại đạo ra khỏi tâm ta. Tà ma
ngoại đạo là gì. Đức Phật dạy rằng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…
chính là ma quỷ trong lòng ta. Ta đánh đuổi chúng bằng cách tu cho
thành tựu các thiện pháp là tín, tàm, úy, vô tham, vô sân, vô si, v.v…
Và khi đem đạo quân Hiền thánh này đặt vào lòng ta để xua đuổi đạo quân
ma ra ngoài, những người tốt trong xã hội sẽ tự tìm đến ta mà hợp tác,
giúp đỡ. Thật vậy, khi tâm ta thực sự tốt, thể hiện ra cử chỉ, lời nói,
việc làm tốt, tạo thành sức thu hút người tốt đến với ta, không phải mời
gọi. Hòa thượng Thiện Hoa dạy tôi ý này, tu cho đạt kết quả tốt đẹp,
không khuyên ai, nhưng luôn tự nhủ với lòng mình phải thanh tịnh tâm
mình, phải làm được việc tốt, thì quả báo tốt trong hiện thực cuộc sống
sẽ tự động có.
Tôi nhớ Hòa thượng Thiện Hoa kể rằng sư
Thiện Chiếu rất thông minh, rất nhiệt tình trong phong trào chấn hưng
Phật giáo. Ông thường đến các chùa kêu gọi hợp tác thực hiện phong trào
này, nhưng người ta không hợp tác mà còn xua đuổi, nói xấu. Ông tức
giận, hoàn tục, không chấn hưng Phât giáo nữa, không tu nữa. Hòa thượng
Thiện Hoa nhắc tôi kinh nghiệm này, khi ta quá nhiệt tình với đạo mà
phải đối đầu với những việc ngang trái trên cuộc đời, sẽ dễ dàng bỏ
cuộc. Hòa thượng Thiện Hoa dạy chúng ta phải nô lực chấn hưng Phật giáo
trong lòng chúng ta, tức đưa đạo quân Hiền thánh vào tâm mình mà xua tà
ma ra khỏi tâm. Hàng ngày chúng ta kiểm tra đạo quân Hiền thánh xem bị
mất mấy người để lo mộ tập, tuyển dụng bổ sung vào, kiêm soát xem quân
ma núp ở đâu, có mấy tên, thậm chí nhiều lúc chúng còn dám ẩn núp dưới
bàn Phật, ẩn núp trong tiếng niệm Phật, chúng ta cần mạnh dạn xua đuổi
chúng ra.
Trong đạo quân Hiền thánh, anh lính đầu
tiên chúng ta mô tập là niềm tin, niềm tin này phải kiên cố. Tôi luôn
nhớ câu “Niềm tin kiên cố, đức hạnh vẹn toàn” và thực tập hai pháp này
suốt cuộc đời cho thành tựu. Niềm tin đầu tiên của chúng ta là niềm tin
kiên cố nơi Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng và tự tin rằng mình cũng sẽ làm
được những việc như Phật, Bồ tát, A la hán đã làm. Đức Phật dạy La Hầu
La rằng người khác làm được thì ông cũng phải làm được, đừng tự khinh
mình. Sư Thiện Chiếu bỏ cuộc vì thiếu tự tin. Quý vị suy nghĩ xem mình
đã bỏ cuộc bao nhiêu lần và được thầy khai ngộ, rồi tu lại, một lúc lại
bỏ tu, rồi tu lại nữa … Cứ trồi sụt như vậy mãi nên ngày nay vẫn còn
lững lững lờ lờ trên bước đường tu. Niềm tin là anh lính gác cửa mà
chúng ta cần quan tâm. Đối với người tu, sợ nhất là đánh mất niềm tin.
Niềm tin vững mạnh, chúng ta mới tiến xa được trên lộ trình Phật đạo.
Ngoài niềm tin, chúng ta phải biết xấu
hổ, lỡ làm việc không tốt với bạn, với thầy, phải ăn năn, thề không dám
tái phạm; đó là “Tàm”. Người phạm sai lầm mà ưa che giấu và khi người
khác biết lỗi rồi thì lại cố bào chữa, như vậy tội càng nặng hơn. Phải
thành tâm sám hối, mọi người sẽ thương mà tha thứ cho mình. Đức Phật có
hai hạng đệ tử, một là đệ tử đáng quý không bao giờ lỗi lầm. Hạng thứ
hai cũng đáng quý, có lỗi lầm nhưng không che giấu, không bào chữa, mà
biết sám hối. Muốn làm đệ tư Phật, chúng ta phải học hạnh này, oan ức
còn không biện minh, huống chi là có tội mà còn dám bào chữa.
Vô tham, vô sân, vô si, là ba thiện tâm
sở cần phải phát triển thêm. Lúc còn là học Tăng, cuộc sống rất nghèo
đói, tôi nhớ khi lên quả đường lần đầu, thấy thức ăn nào ngon là vội gắp
vào bát; như vậy thì không ai thương mình được. Phải vô tham, tự phạt
mình, nếu muốn ăn nhiều thì tự cấm mình, không ăn, nhờ vậy, tôi quen ăn
ít. Lần lần trị tận gốc lòng tham của mình; không tham thì mới cho phép
ăn nhưng mình cũng chỉ ăn vừa đủ.
Chúng ta dùng thiện tâm sở để trừ phiền
não khởi lên trong lòng mình; từ đó, gặp việc đáng giận cũng không giận,
gặp việc đáng buồn cũng không buồn. Tôi thấy có người lúc nào cũng buồn
phiền, giận dữ người khác thì làm sao tu hành.
Vô tham, vô sân là tuyển mộ được hai anh lính Hiền thánh và vô si thì
tâm hồn nhẹ nhàng, tức khinh an, việc gì xảy đến, mình cũng vui vẻ bỏ
qua được, là hỷ xả. Lấy 11 thiện tâm sở theo Phật dạy để đánh đuổi sáu
căn bản phiền não ra khỏi lòng mình. Kế tiếp, đối với 21 anh tiểu ác ma
là phẫn, hận, phú, não, tật, xan, v.v…, chúng ta loại bỏ toàn bô những
anh em chú bác phiền não này để tâm ta được sạch sẽ thì Hiền thánh sẽ tự
động đến với mình. Còn đầy đủ tham vọng, sân hận, si mê mà ham khuyên
dạy người khác chỉ luống công vô ích, ví như muốn nấu cát thành cơm. Lời
Phật từng nhắc nhở trong nhiều kinh điển rằng “Tâm bình, thế giới bình”
mãi mãi có giá trị hữu ích cho nhân loại xây dựng nếp sống an lạc, hạnh
phúc, hòa hợp, hòa bình trên trái đất này.
Nguồn: HT Thích Trí Quảng (
Giacngo.vn)
0 comments:
Post a Comment