Ảnh minh họa : Internet |
Đông Tây gặp nhau về lịch số học
Người
ta không lẽ sống u minh trong cõi thời gian không cùng không tận này mà chẳng
hay rằng
mình
đã trường cửu được bao lâu. Vũ trụ có hai cái không cùng là Không gian và Thời
gian (l'Espace et le Temps). Đã biết dùng thước để đo
Không gian, tất phải nghĩ ra cách gì để đo
Thời gian. Bởi thế, bao nhiêu thế hệ, học giả nối nhau
tìm cách đặt lịch (calendrier) nhưng lấy gì
làm bản vị(unité)? Đó là then chốt của phép đo thời gian;
biết được điều ấy tức là tìm ra cách làm
lịch.
Xét nghiệm những hiện tượng của mặt trăng, mặt trời và
cõi đất, đều khiến người xưa phải để ý
trước nhứt là sự thay đổi của bốn mùa luân lưu trong một
khoảng thời gian gần như nhứt định.
Sự thay đổi của bốn mùa có ảnh hưởng trực tiếp ngay đến bản
thân, nên dù người có lãng ý đến
đâu, người tối dạ đến đâu cũng nhận thấy.
Tiếp theo những ngày rét thấu xương vừa hết, một bầu trời
đầm ấm hình như thấm nhuần vào
thân thể ta một khí vị rất êm đềm nhẹ nhàng dễ chịu.
Rồi ngày qua thấm thoát, lại đến độ nóng thiêu người... Chỉ
ít lâu, mặt trời bớt nóng, người ta đã
trút được cái khí nồng nực nặng nề mà sống thư thái những
ngày nắng dịu khí buồn và những
đêm
gió mát trăng trong. Những cái vẻ buồn ngày một tăng thêm mà thành ra hãm cái
hơi mát
ngày
một dịu lần mà thành ra lạnh.
Người
ta bước sang mùa rét được ít lâu, rồi lại đến ngày tươi đầm ấm.
Bốn
mùa cứ thay đổi như thế không ngừng, ảnh hưởng trực tiếp ngay đến thân thể con
người,
khiến
người xưa để ý đến trước nhứt và nhận ra sự luân chuyển rất đều đặn của thời tiết
hình
như
đã hạn định trong một khoảng bao nhiêu ngày đó.
Tất
cả cái then chốt trong việc làm lịch là biết được đích xác có bao nhiêu ngày
trong bốn mùa
ấy.
Điều
thứ hai đã làm chú ý người xưa là sự luân chuyển của bốn mùa, có ảnh hưởng thiết
thực
đến
sống hàng ngày của con người và hoa quả, cây cối. Đã đến khi không thể sống
nhàn nhã tự
nhiên
hái hoa quả rừng mà đủ ăn được, thì bấy giờ lại càng thấy sự cần thiết làm lịch
để biết thời
tiết
mà trồng trọt, chăn nuôi.
Những
hiện tượng trong trời đất và cảnh vật chung quanh ta đều theo bốn mùa trở đi trở
lại có
thường
độ, người xưa đếm ngay ra, ám nhận thấy thường độ ấy vào khoảng trên hay dưới
360
ngày
chi đó.
Nhưng
làm lịch không thể nói phỏng chừng như thế được, phải biết đích xác bao nhiêu
ngày là
tròn
hết một vòng luân chuyển của bốn mùa.
Một
sự nhận xét nông nổi tính ra vòng luân chuyển ấy ở trong khoảng 12 lần trăng
tròn. Lại đến
xem
bao nhiêu ngày là một lần trăng tròn, người ta thấy đúng 29 ngày rưỡi.
Vậy
12 lần trăng tròn là: 29,5 x 12 = 354 ngày. Người ta liền lấy cái khoảng 12 lần
trăng tròn là
354
ngày làm một độ lịch gọi là một năm. Mỗi lần trăng tròn là một tháng, người Tàu
gọi mặt
trăng
là Nguyệt, nên cũng gọi tên tháng là Nguyệt.
Vì
mỗi tuần trăng tròn là 29 ngày rưỡi lẻ loi, nên nhà làm lịch xê xích lại cho chẵn,
cứ một tháng
thiếu
29 ngày, lại có một tháng thừa là 30 ngày.
Âm
lịch 354 ngày dùng được ít lâu, người ta nhận thấy nó ngắn quá, năm tháng chóng
hết, mà
thời
tiết cứ ngày càng lùi chậm lại. Theo lịch thì là giữa Hè rồi mà trời chưa bức,
đã sang Đông
rồi
mà trời chưa rét.
Quyển
lịch năm thiếu ấy rất tai hại cho việc canh nông, sự chăn nuôi, trồng trọt, trái
thời tiết sẽ
làm
giảm sút số hoa lợi; cuộc sinh hoạt vì đó thiếu thốn khó khăn. Cho nên ở những
nơi dân cư
trù
mật, việc canh nông rất là hệ trọng, người ta đã phải cố gắng xem xét hiện tượng
của vũ trụ
và
các vầng tinh tú để tìm thấy một quyển lịch đúng thời tiết.
Từ
thời đại rất sớm, người Trung Hoa, người Chaldéen đã rất giỏi về Thiên văn học.
Âm
lịch 354 ngày ngắn quá, người ta thí nghiệm thêm lần ngày ra khi tới số 365
ngày thì thấy
thời
tiết vừa sát đúng
Sử
ký Tàu chép: "Vua Thuấn sai họ Hy, họ Hoa xét tượng số các vầng nhựt nguyệt
và tinh tú để
làm
lịch cho dân biết thời tiết mà trồng trọt, chăn nuôi".
Một
quyển số học tối cổ của Trung Hoa là Kinh Dịch nói về nguyên lý của vũ trụ và
thế giới kể lại
rằng:
"Vua Phục Hy lên đỉnh núi, xét sự vãng lai của tinh tú, suy về lý do của
vũ trụ rồi lập thành
một
bản đồ 64 quẻ, nói về sự biến hóa và sự luân hồi của thế giới vạn vật".
Hiền
triết đời sau cắt nghĩa thêm cho dễ hiểu: "Dịch hữu Thái Cực thị sanh Lưỡng
Nghi, Lưỡng
Nghi
sanh tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái" (Chu Tử).
Dịch
nghĩa: Nguyên lý của mọi sự hóa sinh trong vũ trụ là cái lý độc nhất, tuyệt đối,
tự hữu, hằng
hữu, vô thủy, vô chung, mà ta tạm gọi là Thái Cực (L'Être
suprême, absolu en soi et éternel: Dieu).
Do lý Thái Cực ấy sinh ra hai thể tương phản mà ta tạm gọi
là Âm và Dương (deux forces
opposéesL le Positif et le Négatif).
Hai thể tương phản giao nhau thành ra bốn hiện tượng của
thế giới là:
- Lão Dương (vieux soleil).
- Lão Âm (vieille lune).
- Thiếu Dương (astres mineures).
- Thiếu Âm (l'atmosphère: làn không khí bao bọc địa cầu).
Bốn hiện tượng ấy lại giao nhau mà sanh ra tám thể:
1.- Càn: Trời (le ciel).
2.- Khôn: Đất (la terre).
3.- Khảm: Nước (les liquides: l'eau).
4.- Ly: Lửa (la chaleur: le feu).
5.- Chấn: Điện (l'électricité: tonnerre et foudre).
6.- Tốn: Gió (l'air: le vent).
7.- Cấn: Núi (les plissements: plateaux et montagnes).
8.- Đoài: Đầm (les dépressions: mares et lacs).
Những thể ấy giao nhau mà hóa sanh ra vạn vật.
Về Lý học, nói đến đây là đủ hiểu đại khái. Nhưng về số học
người ta còn tính thêm nhiều: Tám
quái giao nhau thành 64 quẻ, mỗi quẻ lại chia làm 6 hào,
thành ra:
- 6 hào x 64 = 384 hào.
Quái khí khởi từ quẻ Trung Phu, trừ quẻ Chấn, quẻ Ly, quẻ
Đoài và quẻ Khảm là bốn quẻ chánh,
có 24 hào làm chủ 24 khí, còn thừa:
- 64 quẻ - 4 = 60 quẻ.
Mỗi quẻ là 6 ngày 7 phân, nhân ra:
- 6,7 x 60 = 360 ngày 420 phân.
Mỗi ngày có 80 phân, vậy 420 phân tức là 5 ngày 20 phân
hay là 5 ngày và một phần tư ngày.
Biết được số ấy, người ta nhận thấy rằng Âm lịch ngắn mất:
- 365 ngày 1/4 - 354 = 11 ngày 1/4.
Như thế, theo Âm lịch cứ một năm 12 tháng thiếu mất 11
ngày 25. Vậy trong 2 năm 7 tháng rưỡi
tức là 31 tháng rưỡi, thì thiếu vừa vặn 29 ngày 50.
- (12 tháng x 29 ngày 50) :(chia) 11 ngày 25 = 31 tháng
rưỡi.
Trong 31 tháng rưỡi, thiếu đúng 29 ngày rưỡi, tức là vừa
đúng một lần trăng tròn. Cho
nên
muốn
bù vào chỗ thiếu ấy để thời gian khỏi sai lẫn, nhà làm lịch cứ hai năm tám tháng
lại có một
tháng
nhuần, rồi hai năm bảy tháng lại có một tháng nhuần.
Như
thế tức là những năm nhuần kia dài gấp 13 lần trăng tròn.
Nhà
làm lịch Tàu lại tính sẵn đủ cho một pho lịch 60 năm một vòng; đời sau cứ thế
mà hàng năm
in
ra cho dân dùng.
Người
Chaldéen cũng làm âm lịch 354 ngày, nhưng không có pho lịch sẵn, cứ bao giờ các
nhà
thiên
văn cộng vào thấy vừa thiếu trọn một tuần trăng tròn, thì tâu lên nhà vua, nhà
vua lại giáng
chỉ
cho dân thêm tháng nhuần thứ 13 ấy vào.
Thứ
lịch mới này, tháng tính theo độ số của mặt trăng là Âm lịch, còn năm thì theo
độ số của mặt
trời
để hợp thời tiết bốn mùa là Dương lịch, nên gọi là Âm Dương lịch, hay Nhật Nguyệt
lịch
(Calendrier luni-solaire).
Trong
khi người phương Đông theo độ số mặt trăng, thì người phương Tây ra sức xem xét
mặt
trời.
Lịch
La Mã (Calendrier Romain) làm từ đời vua Romolus (735-714 trước kỷ nguyên Tây lịch),
chỉ
có
300 ngày chia làm 10 tháng.
Vua
sau là Numa Pompitius (714-671 trước kỷ nguyên Tây lịch) thêm vào hai tháng nữa.
Tất cả
thành
12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, cộng là 360 ngày.
Tới
năm 708 lịch La Mã, danh tướng La Mã là César (101-44 trước kỷ nguyên Tây lịch)
sửa đổi
lại
lịch cũ cho hợp với độ số của mặt trời, tính cứ thấy một vòng một năm là 365
ngày và 1/4
ngày,
Jules César liền đặt lịch mới là 365 ngày, còn 1/4 ngày ngày lẻ góp 4 năm lại
đúng một
ngày
lẻ, cho vào cuối tháng Hai (Février) gọi là ngày nhuần.
Lịch
ấy theo độ số của mặt trời, nên gọi là Dương lịch do Jules César làm ra, cũng gọi
là lịch
Julien.
Đó là lịch ngày nay đang dùng.
Kể
số ngày, thì lịch Julien cũng giống như Âm Dương lịch dài 365 ngày thêm 1/4
ngày. Nhưng
năm
tháng đi sai nhau nên bốn mùa và hiện tượng thiên văn chỉ khác nhau.
Nhật
Nguyệt lịch tính theo độ số mặt trăng, nên đầu tháng là đầu tuần trăng non, giữa
tháng là
tuần
trăng tròn, cuối tháng là tuần trăng khuyết.
Lich
Julien chỉ theo độ số mặt trời, nên không hợp với các tuần trăng tròn khuyết, bởi
vậy không
thể
xem vầng trăng mà đoán được ngày tháng trong lịch Julien, như theo Âm Dương lịch.
Âm
Dương lịch phối hợp cả độ số của hai vầng nhật nguyệt đối với dịa cầu, nên Nguyệt
thực de
lune)
bao giờ cũng vào tuần trăng tròn (giữa tháng), Nhật thực (Eclipse de soleil)
bao giờ cũng
vào
tuần trăng non (đầu tháng). Lịch Julien không theo độ số mặt trăng nên những hiện
tượng
thiên
văn (phénomènes atmosphériques) ấy có thể xảy ra bất cứ ở ngày nào trong lịch,
mà không
nhất
định ở giữa tháng, đầu tháng hay cuối tháng.
Cứ
theo lý ra thì một năm có bốn mùa, lịch phải đặt thế nào cho mùa Xuân đúng vào
ba tháng
đầu.
Mùa Hạ dúng vào ba tháng sau. Mùa Thu đúng vào ba tháng dưới. Mùa Đông đúng vào
ba
tháng
cuối cùng.
LịcH
Julien đặt sai hẳn cả:
- Ngày 21 Mars là tiết Xuân phân (équinoxe de printemps).
- Ngày 21 Juin là tiết Hạ chí (soltice d'été).
- Ngày 23 Septembre là tiết Thu phân (équinoxe
d'automne).
- Ngày 21 Décembre là tiết Đông chí (soltice d'hiver).
Thành ra đầu năm lịch, trời chưa sang Xuân, mà cuối năm lịch
mới khởi đầu mùa rét...
Lịch Julien bất tiện như thế, nên đến cuối thế kỷ thứ 18,
những nhà cầm đầu cuộc cách mạng
nước Pháp đã sửa đổi phép đo lường, lại nghĩ đến cách sửa
đổi cả phép làm lịch cho phú hợp
thời tiết bốn mùa.
Quốc Gia Hội Nghị (La Convention Nationale) ban hành sắc
lệnh cho dân quốc theo lịch mới từ
ngày 24-11-1973.
Lịch ấy gọi là lịch Dân quốc (calendrier républicain) khởi
đầu năm từ ngày Thu phân (22
Septembre) chia làm 12 tháng, mỗi tháng chẳng 30 ngày,
còn thừa 5 ngày lẻ kia dùng để mở hội
nghị kỷ niệm Dân quốc.
Mười hai tháng ấy không gọi là Giêng, Hai, Ba, Tư... gì cả,
cứ theo thời tiết thế nào thì đặt tên
tháng như vậy. Nhà thi sĩ Fabre d'Eglantine (1750-1794) dự
bàn việc chánh trị, có chân trong
Quốc Gia Hội Nghị, dặt cho 12 tháng ấy những cái tên rất
nên thơ:
1.- Mùa Thu:
- Vendémiaire: mois des vendanges, tháng hái nho.
- Brumaire: mois des brumes, tháng sương móc.
- Frimaire: mois des frimas, tháng sương mù.
2.- Mùa Đông:
- Nivose: mois des neiges, tháng tuyết trắng.
- Pluviose: mois des pluies, tháng mưa sa.
- Ventose: mois des vents, tháng gió thổi.
3.- Mùa Xuân:
- Germinal: mois des germinations, tháng nẩy mầm.
- Floréal: mois des fleurs. tháng nở hoa.
- Prairial: mois des prairies, tháng cỏ xanh non.
4.- Mùa Hạ:
- Messidor: mois des moission, tháng gặt hái.
- Thermidor: mois de la chaleur, des bains, tháng nồng nực.
- Fructidor: mois des fruits, tháng quả chín.
Mỗi tháng chia làm 3 lần 10 ngày, thi sĩ cũng bỏ cái lối
chia làm tuần lễ: Lundi, Mardi... kia đi, mà
đặt cho 10 ngày những cái tên cũng rất nên thơ:
- Primidi: mùng Một.
- Duodi: mùng Hai.
- Tridi: mùng Ba.
- Quartidi: mùng Bốn.
- Quintidi: mùng Năm.
- Sextidi: mùng Sáu.
- Septidi: mùng Bảy.
- Octidi: mùng Tám.
- Nonidi: mùng Chín.
- Décadi: mùng Mười.
Về Lịch số học đến đây thì quí vị đã hiểu đại khái. Còn về
Dịch học của Á Đông thì sâu xa lắm và
viết ra cho hết không tiện, nên chỉ tóm tắt mà thôi.
VÀI LỜI CÁO LỖI
Vì những vị tân học ngày nay cũng có một phần ít không
rành về danh từ trong chữ Nho, nên
buộc lòng tôi phải chua ngoại ngữ vào thêm chỗ giảng về Bát
Quái Ngũ Hành và bài hiểu thêm về
Lịch số học. Đó cũng chẳng ngoài ý của tôi muốn cho quí vị
rộng hiểu thêm và cũng muốn ghi lại
công
khó của người xưa, dầu sao cũng có một đôi phần hữu ích vậy.
Viên
Tài Hà Tấn Phát
Trích
trong Ngọc Hạp Chánh Tông
0 comments:
Post a Comment