Mỗi người sống lâu năm trên đất Lào dù muốn dù không đều giấu trong tâm linh cùng lúc hai hai niềm tin. Một niềm tin có định nghĩa thoát tục, xa vời : Tôn giáo. Một niềm tin với định nghĩa trần thế, hiện tiền : Dị đoan, mê tín hay tín ngưỡng dân gian. Trên lý thuyết hai niềm tin nầy đã được phân ranh rõ ràng, với hai nội dung, hai hình thức và hai cứu cánh khác nhau. Qua dị đoan, mê tín người Lào cầu tìm hạnh phúc và sức khoẻ, sự an toàn và sự bảo bọc trước mắt và tức khắc cho mỗi cá nhân và cho cộng đồng ; còn qua tôn giáo ( Phật giáo tiểu thừa nói riêng ), ngoài cứu cánh nói trên, họ cầu một giải pháp tạm thời cho các hệ lụy tâm linh trong đời sống hiện tại tức hiện sinh hay hư sinh đồng thời dự phóng một sinh lộ siêu thời gian, ngoài kiếp người tức siêu sinh hay niết bàn. Trên thực tế tại đất nước Lào, hai niềm tin nầy sinh hoạt bổ túc hài hoà, cởi mở tự nhiên trong tâm linh 6 triệu con người, đến nổi chính họ, trong đời sống hàng ngày hay trong các dịp lễ lạc, hầu như không còn băn khoăn bóc tách giữa niềm tin tôn giáo ( thứ Phụt = thờ Phật ) hay niềm tin dị đoan ( thứ Phí = thờ Ma ). Có thể khẳng định mà không sợ lầm lẫn rằng hai niềm tin nầy trên đất Lào có một mối tương quan kỳ lạ tạo nên một cấu trúc tín ngưỡng đặc thù cho đại thể dân tộc Lào (1). Các dịp lễ có tính cách dị đoan như Bun Bang Phay ( Hội pháo thăng thiên, lễ cầu mưa ), Bun Suồng Hưa ( Hội nước, lễ đua thuyền ) …
Rất nhiều tục kiêng cữ, cấm kỵ ở Việt Nam đã theo bước các bậc trưởng thượng người Việt di cư qua đất Lào từ những năm 1930, 1945 và cho tới ngày nay ảnh hưởng vẫn nguyên vẹn như ở quê nhà. Tóm lại, trong mỗi người Việt - theo bất cứ chính giáo nào - sinh sống tại Lào nói riêng đều giấu thêm trong hồn, ít nhất, một tín ngưỡng như đã nói trên trong tinh thần " nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục " với hai danh xưng khác nhau :
1. Tục cấm kỵ, kiêng cữ mang theo từ quê cha đất tổ.
2. Tục kh'lăm của dân tộc bản địa.
1. Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ VN trên đất Lào
Đầu năm mới :
- Người Việt nói chung đều cẩn trọng trong mọi sinh hoạt vì sợ bị " giông ".
- Kiêng sự gây gổ, gắt gỏng e gây gổ nhăn nhó suốt năm.
- Kiêng quét nhà sợ tiền tài tẩu thoát theo … rác hoặc cả năm làm ăn khó khăn, ít lợi.
- Kiêng nói tục, chửi thề vì sợ nói tục, chửi thề quanh năm.
- Trước đêm 30 Tết, con nợ phải lo trả nợ trong năm cho hết, còn không phải đi trốn chủ nợ đến giờ giao thừa mới dám trở về nhà vì sợ bị người đòi nợ cả năm. Phần chủ nợ tối 30 Tết phải làm mọi cách để đòi cho hết nợ vì sợ phải đi réo nợ trọn năm. Ca dao có câu " giàu có ba mươi Tết mới hay " là vậy.
- Kiêng ăn mặc y phục màu trắng vì màu trắng là màu tang tóc. Đầu năm mặc màu trắng, dùng chữ Chết cho là điềm gở.
Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ khác :
- Kiêng gả chồng cho hai con gái liền vì sợ đứa nầy giành hết lộc của đứa kia.
- Người có đại tang tránh đi ăn cưới, e gây điềm xúi quẩy, không may cho cô dâu và chú rể.
- Kiêng không cho đàn bà có mang ở nơi khác tới sanh trong nhà mình vì tin rằng Tử lành, Sanh dữ.
- Cha mẹ kiêng không theo đưa con gái về nhà chồng.
- Kiêng không để người chết ở lộ thiên vì tin rằng chỉ người vô phúc, bất đắc kỳ tử mới chết lộ thiên. Trường hợp ướp và trưng bày xác, người còn chút lương tri đều cho là chuyện quái đản, hao tài tốn của thậm vô duyên, phỉ nhổ phong tục tập quán của tổ tiên.
- Khi quàng xác kiêng để cho chó mèo nhảy qua e người chết sống lại và thành quỉ nhập tràng.
- Kiêng dùng vật dụng của người chết để lại.
- Đánh bạc kiêng bị người khác vịn vai, kiêng ăn đầu vịt, cơm khê, kiêng đàn bà chửa ngồi cạnh … e thua.
- Đi chùa kiêng ăn thịt chó.
- Kiêng dùng đồ ăn cắp dâng lễ và không được ăn cắp đồ lễ trước khi cúng (điểm nầy phải hỏi lại các đàn anh trong nhóm Mélia tại SV thuở trước).
- Kiêng cho trẻ con ăn trứng lộn, ăn cơm cháy … sợ trẻ con học ngu. ( toàn thứ khoái khẩu cả ).
- Kiêng cho trẻ con ăn chân gà sợ chúng viết run tay ! ! !
- v.v…
2. Tục Kh'lăm của dân tộc Lào
Kh'lăm dịch nguyên nghĩa ra tiếng việt là Kiêng kỵ.
Từ ngữ kh'lăm đối với dân tộc Lào mang một ý nghĩa sâu rộng đến nổi chưa một người Lào nào dám tự nhận mình thông suốt, cũng như xưa và nay không một người Lào nào, gồm cả những người cộng sản Lào, dám phủ nhận kh'lăm. Những tục kh'lăm - vốn chỉ được khẩu truyền trong gia tộc, làng bản - thường biến thiên theo không và thời gian : Một sự kiện kh'lăm ở Bắc Lào có thể không kh'lăm ở Nam Lào ; điều kh'lăm hôm qua không còn giá trị hôm nay, điều kh'lăm hôm nay có thể khác hẳn điều kh'lăm ngày mai. Tuy nhiên ta có thể hiểu kh'lăm là một hình thức tự vệ, một sự kiêng kỵ được truyền thừa lại bằng kinh nghiệm và nhân bản bao hàm lợi ích cho chính mỗi cá nhân ; một sự hạn chế tự nguyện trong chính các tự do của mỗi người đối với những hậu quả không hay trong đa số những việc làm và cách hành xử của mình. Không một hình luật Lào nào cấm người bản xứ và ngoại kiều quan sát, nhận định, phê bình kh'lăm cũng như không có hình phạt chế tài cho sự vi phạm tức không tôn trọng kh'lăm, trừ trường hợp sự " không kh'lăm " làm tổn hại đến vật chất, tài sản công và tư nói chung thì đã có luật pháp.
Do đâu người Lào kiêng kỵ điều nầy, cấm cản điều kia như thế ?
- Sao hôm nay bác không làm việc ?
- Kh'lăm !
- Tại sao tôi không thể vô làng ?
- Kh'lăm !
- Mời thím ăn thử món nầy.
- Cám ơn, kh'lăm…
- Chị có thể cho tôi cầm xem món đồ kia không ?
- Không được, kh'lăm !
- Anh dùng dầu gì mà tóc anh mướt đẹp thế, cho tôi sờ tí được không ?
- Không, kh'lăm ...
Kh'lăm ! Kh'lăm ! Cái gì cũng kh'lăm ! Bạn sẽ nổi nóng khi gặp cảnh huống nầy, nhưng sự thật là vậy đó. Giữa người Lào với nhau hoặc giữa người Lào và ngoại kiều sinh sống lâu năm trên đất Lào thì đó là chuyện thường, đôi khi họ còn chọc ghẹo nhau trong niềm thông cảm như sau :
" Kh'lăm ? Pạc pàu khen ! Khá lăm ".
( dịch nghĩa: " Kiêng kỵ ? Mồm thổi khèn ! Chân múa ". Khá tiếng Lào có nghĩa là Chân, lăm có nghĩa là Hò nhưng ở đây lại ngụ ý là Múa ). Nói rõ hơn đây là cách chơi chữ bằng cách đọc trại chữ kh'lăm ( một chữ, phải đọc nhanh âm kh' / khă ) thành khá-lăm ( kéo dài âm kh' ra thành chữ Khá rồi đọc chữ Lăm ).
- Khi đi qua một làng ( bản ) Lào mà bạn thấy nơi cổng vào làng có một sợi dây kết bằng bông vải giăng ngang hoặc một ký vật, một ký hiệu đặc biệt, tục gọi Tà-léo - tùy địa phương - thì phải hiểu là dân trong làng nầy cấm ( kh'lăm )người lạ vào làng. Thường là vì trong làng đang có trường hợp bệnh lạ hay người chết một cách khó hiểu có thể gây sự truyền nhiễm ; hoặc hôm đó nhằm một ngày kh'lăm của làng.
- Khi một người Lào từ chối không ăn một thức ăn nào đó có nghĩa người ấy đã theo lời khuyên của Mó-dà ( thầy lang ) hầu giữ gìn sức khoẻ cho bản thân hoặc món ăn đó thuộc giới cấm của bửu bối phòng thân trên người họ.
- Một ngày kh'lăm có thể là một ngày nghỉ ngơi không làm việc, hoặc nhằm một văn-sính ( ngày rằm ).
- Khi một người Lào không bằng lòng cho bạn sờ mó một đồ vật của họ, có thể vì món đồ đó là một vật hiếm dễ khơi lòng tham, cũng có thể vì một lý do rất giản dị là đối với người ấy vật kia mang một giá trị tinh thần đặc biệt hoặc món đồ đã được sư sụt môn ( làm phép ) nên không muốn ai khác cầm tới.
- Sờ hay vỗ đầu một người Lào (đặc biệt đàn ông ) không những là một kh'lăm mà còn là một sự xúc phạm nặng nề, có thể dẫn tới chuyện ấu đả, đổ máu.
Vài tục kh'lăm khác
- Kiêng hớt tóc, cạo râu ban đêm.
- Kiêng hớt tóc ngày thứ tư vì là ngày Đức Phật thí phát xuất gia, và kiêng gội đầu ngày thứ năm.
- Kiêng bò bốn chân trong rừng e cọp đến.
- Khi lấy xôi trong típ ( giỏ đựng xôi ) phải nhớ đậy nắp lại.
- Luôn luôn chừa lại ít nhất một vắt xôi trong típ, gọi là khoắn típ ( khoắn = viá hay hồn ).
- Kiêng cán một nắm xôi ( lớn ) mà phải dùng một tay cầm nắm xôi, tay kia ngắt ra từng vắt nhỏ và mỗi lần ăn bỏ trọn vào miệng.
- Kiêng nằm ăn uống e biến thành rắn.
- Học trò không được ngồi chỗ cao hơn thầy cô.
- Thần dân không được ngồi chỗ cao hơn ông hoàng, bà chúa ( nay là chủ tịch, thủ tướng … )
- Phật tử không được ngồI cao hơn tăng ni.
- Vợ không được ngồi chỗ cao hơn chồng.
- Vợ chồng không nằm chung giường trong ngày sinh nhật của một trong hai người.
- Vợ phải đi ngủ sau chồng, thức dậy trước chồng.
- Con cái không được ngồi chỗ cao hơn cha mẹ.
- Khi ngủ không được hướng đầu về phía cửa ra vào.
- Không được mang người chết vào nhà, dù là thân bằng quyến thuộc.
- Không giã cối trống.
- Đàn ông không chui qua dây có phơi quần áo đàn bà.
- …
Ngoài những điều kh'lăm thông thường trên, trong tâm linh người Lào còn điều quan trọng khác, đó là niềm tin vào Phí ( thần, ma, quỉ ).
Phí trên đất Lào
Người ngoại quốc nói chung, người Việt nói riêng, thường hiểu và dịch một cách đơn giản chữ Phí thành ma quỉ. Ý nghĩa chữ Phí không đơn giản như vậy. Phí theo quan niệm Lào gồm nhiều nghĩa : là yêu ma, quỉ quái, thần thánh, tà tiên, âm binh, âm tướng, oan hồn,uổng tử … và nhiều thứ khác gom lại. Tín ngưỡng dân gian Lào, theo soạn giả, chia thế giới thần linh làm ba cấp :
1. Thiên Sứ như Thén Phra Khun, Thén Tèng, Thén Lổ, Nang Thorani …Thén nghĩa là Trời.
2. Địa Sứ gồm các Phí Hặc Sá như Phí Mương, Phí Bản, Phí Hươn … là các thần tổ tiên hộ trì thôn bản, dân cư, gia tộc.
3. Nhân Sứ gồm các Phí Haài như Phí Pọp, Phí Kong Koi … là các ma quỉ, yêu quái biến thái từ con người trần tục.
Tín ngưỡng dân gian nầy thường được gộp chung vào danh xưng Linh Hồn Giáo.
Giáo Hội Phật Giáo Lào ( PGL ) không chính thức công nhận Linh Hồn Giáo Lào( LHGL ) như một tôn giáo vì LHGL không có thánh địa, không có giáo chủ, không có giáo lý, giáo luật cố định trên giấy trắng mực đen ; không đề ra một cứu cánh tối thượng hay chân lý sau cùng như PGL , song như đã nói trên, cho tới nay, 2005, LHGL vẫn cọng tồn song hành trong tương dung, hài hoà với tín ngưỡng PGL hệ tiểu thừa vốn là quốc giáo của người Lào từ nhiều thế kỷ, nhưng mãi đến khi giành lại được nền độc lập từ thực dân Pháp và qua bản hiến pháp ngày 11 tháng 5 năm 1947, được tu chính trong tháng 3 năm 1965, PGL mới đưọc hợp hiến thành quốc giáo. Phải chăng sự tương dung, tương kính nầy là hạt nhân hiếm quí mà kết quả cụ thể không thể phủ nhận là sự khác biệt giữa con người Lào và con người ở các quốc gia lân cận mỗi khi có khúc rẻ nghiệt ngả trên con đường Lịch Sử mang danh cách mạng.
Phật Giáo Lào - như ở mọi nơi khác - trên phương diện thế tục, tập trung và xuất phát từ chùa và tăng già, biểu tượng tôn kính duy nhất là Đức Phật dưới nhiều hình tướng khác nhau. LHG nói chung thường được thể hiện trong các thôn làng, rải rác theo các hình thức ước lệ như Hó ( miếu ), Thạt ( tháp ), Phu ( núi ), Pà ( rừng ) hoặc Hín Nhày (Tảng Đá ), Tổn Mảy ( gốc cây ) … và Mó Phí , Mó Phon ( phù thủy, ông đạo, pháp sư, bà đồng…) độc lập.
=============================
Chú thích
(1) Trong bài nầy, ba từ " dân tộc Lào" là để chỉ định bộ tộc ( Phầu) Lào, 1 trong 68 bộ tộc hiện diện ở Lào. Bộ tộc Lào là bộ tộc đông người nhất và là bộ tộc chủ thể, tương tự người Kinh trong số 54 bộ tộc ở VN. Xem thêm chú thích trong Đặc Trưng bài Đám Cưới Lào Đám Cưới Việt, Bùa Ngải Trên Đất Lào cùng một soạn giả