Mạc Hiến Tông ( ? – 1546)
Mạc Hiến Tông ( ? – 1546) là vua thứ ba nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546. Ông tên thật là Mạc Phúc Hải, còn có tên là Đức Nguyên, là con trưởng của Mạc Thái Tông, Người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách), tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Mạc Phúc Hải được ông nội là Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập lên ngôi tháng 2 năm Canh tý (1540) sau khi vua cha mất. Ông lấy niên hiệu là Quang Hòa.
Cuối đời Mạc Thái Tông, quan hệ với nhà Minh trở nên căng thẳng. Tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp: quân đội Lê trung hưng sau 7 năm chiêu binh luyện mã đã đủ sức về đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau năm Quí Mão (1543) đã kiểm soát được cả Tây Đô (Thanh Hoá). Thái Tổ Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu (1541).
Lúc này, ở Trung Quốc, Minh Thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía Nam, rút bài học thất bại của các đời vua trước. Họ bộ thị lang Đường Trụ dâng sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các thời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Minh Thái Tông... Thị lang Phan Trân lại nói: "Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy; nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được".
Vua Minh Thế Tông và lũ triều thần qua nhiều tháng luận bàn đã quyết định chiếm An Nam làm quận huyện nối chí vua Minh Thánh Tổ. Vua Minh cử Cừu Loan làm đô đốc, Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ phụ trách việc đánh dẹp, Hộ bộ thị lang Hồ Liễn và Cao Công Thiều đi đốc thúc quân lương ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây.
Trước tình hình quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên thuỳ phía Bắc. Nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi có thể xẩy ra, rút ra bài học từ thời Hồ Quý Ly, Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã tìm mọi cách có thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hoà bình nên đã tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ... Ông già Mạc Đăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nổi nhục (khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều năm xương máu của cả hai bên. Sau sự kiện quá sức đó, trở về Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu (1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua được 3 năm, làm Thái thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc: không làm đàn chay cúng phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.
Tháng 10 năm ấy Mao Bá Ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc Mạc Đăng Dung đã tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc... Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất, thì hãy mong tha tội cho cháu là Phúc Hải... Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rõ ràng... Thế là tháng 3 năm Nhâm Dần (1542) Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và một quả ấn bạc và cũng tháng 12 năm đó (1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lịch đại thống của nhà Minh, một tờ đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được tập tước của ông làm An Nam đô thống sứ ty.
Thời Mạc Hiến Tông, theo lời bàn của thiếu sư Mạc Ninh Bang là đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ - một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều.
Năm 1543, Lê Trang Tông đích thân đem quân đánh Mạc Hiến Tông, Tổng trấn Thanh Hoa Trung Hầu Dương Chấp Nhất dẫn quân ra hàng Trang Tông, Trang Tông lấy lại được Tây Đô.
Tháng 5 năm 1545 Trang Tông lại đích thân kéo quân ra Yên Mô - Ninh Bình, lúc này Dương Chấp Nhất lại phản lại Trang Tông, bỏ thuốc độc giết Nguyễn Kim rồi trở về với Mạc Hiến Tông. Đại tướng bị giết, Trang Tông phải lui binh. Thừa cơ Mạc Hiến Tông đuổi đánh Lê Trang Tông. Lúc này Trang Tông thăng Trịnh Kiểm lên chức Tiết chế được độc quyền nắm giữ quyền binh để chống lại nhà Mạc. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố.
Năm Bính Ngọ Mạc Hiến Tông lâm bệnh mất ngày 8 tháng 5 năm 1546, ở ngôi được 6 năm. Mạc Hiến Tông đã có những cải cách tiến bộ: công cấp điền địa và cũng coi trọng nghề văn. Trong 6 năm ông đã cho mở hai khoa thi để kén chọn hiền tài, Nguyễn Kỳ đỗ thủ khoa thi 1541, Vũ Khúc đỗ đầu khoa thi năm 1544. Triều đại ông, văn có Mạc Ninh Bang, Trần Phỉ, Mạc Đình Khoa; võ có hai cha con Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện, bốn cha con Nguyễn Kính, Mạc Hữu Mệnh, Mạc Ngọc Liễn và Mạc Lập Bạo đều là những bậc hiền tài.
Con ông là Mạc Phúc Nguyên lên nối ngôi, tức là Mạc Tuyên Tông.
0 comments:
Post a Comment