Sau khi gồm thâu tuyệt học, anh Bảy trở về đất Việt. Những tưởng sau bao nhiêu năm luyện tập sẽ trở thành cao thủ vô địch, nào ngờ trúng phải độc thủ của một pháp sư, biến thành dở điên dở dại….chỉ còn chờ chết. May được thầy Kheng-sivan thương tình cứu chữa mới sống lại. Anh Bảy theo thầy Kheng-sivan học nghề thuốc chữa bệnh, bùa chú, phép thuật hơn chín năm thì thành tài. Trong lúc học, cô con gái của thầy Kheng thấy anh Bảy đẹp trai, chịu thương chịu khó thì thầm thương trộm nhớ…..
Vùng Bảy núi lúc bấy giờ còn hoang sơ lắm, các cao nhân về đó quy ẩn rất nhiều. Bỏ biết bao nhiêu năm tầm sư học nghệ như vậy mà xem ra anh Bảy cũng còn quá nhiều đối thủ. Đúng là núi cao thì có núi cao hơn. Tham vọng của anh Bảy là phải vô địch thiên hạ….miễn là bằng bất cứ giá nào. Cuối cùng anh nghĩ phải luyện bằng được bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” thì mới mong đánh bại được tất cả cao thủ trong thiên hạ. Bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” chính là tầm tối cao của Thiên Linh Cái. Một thứ bùa cực độc, cực ác, vì thế thầy Kheng-sivan đâu chịu dạy cho đệ tử. Anh Bảy đành phải giở đến chiêu mà thiên hạ thường vẫn làm nhưng vô cùng đắc dụng….đó là cô con gái rượu của thầy Kheng….
Sau khi chôm được y bát, anh Bảy trốn về núi Côtô …Cách luyện “Thiên Linh, Thiên Nhãn” vô cùng tàn độc. Phải dùng 02 cái bào thai một nam một nữ đúng 79 ngày tuổi – lúc đó bào thai vừa tượng hình giới tính – mà phải lấy bằng cách mổ bụng người đàn bà khi họ còn sống thì cái uất khí của họ mới nhập vào bào thai làm cho bào thai trở nên tàn độc vô cùng. Sau đó phải luyện trong bảy năm, mỗi năm dùng máu của đồng nam, đồng nữ tắm cho nó để nó có thêm “linh khí”. Đến năm thứ bảy thì hai cái bào thai khô quắt lại, nhỏ chỉ bằng hai lóng tay, luôn ở trong tư thế ôm nhau. Lúc đó phải làm lễ cưới cho nó thì nó mới chịu theo phò. Anh Bảy luyện thêm một sợi Càtha bằng vàng nặng đúng 10 lượng 9 phân để đeo cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” ở ngực. Có cặp bùa này thì đao thương bất nhập, đạn bắn không thủng, ra tay nhanh như chớp giật không ai có thể đỡ nổi. “Thiên Linh, Thiên Nhãn” còn có thể báo trước được mọi tai họa, tiêu diệt hết các lọai phù chú, bùa ngải khác. Sau khi luyện thành công “Thiên Linh, Thiên Nhãn”, việc đầu tiên của anh Bảy là tìm đến thầy Kheng-sivan và ra tay giết hại, độc chiếm vùng núi Cấm.
Lúc bấy giờ đã bước sang thời người Mỹ đổ bộ vào Miền Nam, lúc đó Thiếu tá “Nam” là tư lệnh lực Lượng QĐVNCH cả một vùng Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới…..Nghe rất nhiều chuyện về Tướng cướp Bảy Hổ, Thiếu tá “Nam” muốn dùng sức mạnh vũ khí của người Mỹ để tiêu diệt Bảy Hổ. Cuối cùng thì Bảy Hổ cũng lọt vào ổ phục kích. Lính VNCH đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp, tay cầm súng Cacbin hỏa lực kinh người. Hàng trăm lọat đạn chĩa vào người Bảy Hổ bắn mà chẳng ăn thua gì. Bảy Hổ phóng băng băng như chỗ không người, giết lính của Thiếu tá “Nam” như ngả rạ…. Lính VNCH cuối cùng phải rút lui trong thảm bại.
Quân du kích của MTDTGPMNVN lúc bấy giờ họat động rất mạnh, nên Thiếu tá “Nam” tạm dẹp ý định tiêu diệt Bảy Hổ, mà quay ra đối phó với VC. Bỗng một hôm đang ngồi trong tư dinh thì cánh cửa mở toang, Bảy Hổ từ ngoài đi vào, uy phong lừng lững……
Sau bao cuộc tìm kiếm, cuối cùng Thiếu tá “Nam” cũng mời được một Đạo sĩ tu mấy chục năm trên núi Thất sơn xuống để trừ Bảy Hổ. Đạo sĩ là người Hán, vì bất đồng với nhà Thanh nên mới bỏ qua Việt Nam. Ông ta tu theo phái Côn Luân, lúc nhỏ luyện “Đồng tử công” nên thân thể cứng như sắt thép, đao thương bất nhập. Lại có thể tùy ý “xúc cốt” thu nhỏ người lại theo ý muốn. Sau này đạo sĩ luyện thành “Tiên thiên hỗn nguyên khí công” nên có thể ngưng tụ hơi thở, tạo thành sức mạnh phá tan tường đồng vách sắt….Đạo sĩ đồng ý xuất sơn tiêu diệt Bảy Hổ để trừ hại cho dân lành. Cuộc chiến của hai người đúng là trời long đất lở, cát bay đá chạy, suốt từ buổi sáng đến đêm khuya cũng chưa dứt. Sáng hôm sau trời quang mây tạnh, Thiếu tá “Nam” cho người lên núi thì thấy xác đạo sĩ mềm như bột nhão, cái đầu thì đã bị Bảy Hổ cắt mang đi rồi. Sau chuyện này, Thiếu tá “Nam” không bao giờ còn có ý tiêu diệt Bảy Hổ nữa mà để mặc y tung hoành ngang dọc. Không việc gì mà Bảy Hổ không dám làm, không tội ác nào Bảy Hổ không dám nhúng.
Một hôm khi đang ngồi bên bàn làm việc, bỗng có tên lính vào đưa cho Thiếu tá “Nam” một cái bọc nhỏ. Tên lính nói “có một nhà sư gửi cái này cho thiếu tá”. Thiếu tá “Nam” mở ra xem thì thấy đó là một pho tượng la-hán nhỏ, bằng đất nung bán đầy ngoài chợ. Tên lính nói tiếp “nhà sư đó nói là pho tượng này có thể giết được Bảy Hổ”. Nhìn pho tượng, Thiếu tá “Nam” bất giác bật cười ha hả - Súng đạn Huê kỳ hùng mạnh như vậy, tài nghệ Đạo sĩ phi thường như vậy mà còn không giết được Bảy Hổ, huống hồ là cái pho tượng tầm thường này - Thiếu tá “Nam” tiện tay để luôn pho tượng bên bàn làm việc, mọi việc rồi cũng quên bẵng đi, không ai còn nhắc đến nữa.
Bảy Hổ sau cuộc đại chiến với đạo sĩ phái Côn Luân, mặc dù chiến thắng nhưng cũng bị thương trầm trọng. Bị đạo sĩ đánh mù hết một mắt, Bảy Hổ trở thành Hổ chột càng trở nên ác độc vô cùng. Dưỡng thương phải hơn nửa năm mới lành, Bảy Hổ nghĩ không phải ngẫu nhiên mà đạo sĩ tới tìm mình, cuối cùng y cũng biết là do Thiếu tá “Nam” mời tới thì vô cùng căm tức. Y nghĩ nếu giết thiếu tá “Nam” thì cũng không hả được mối thù mà như vậy thì dễ cho ông ta quá nên Bảy Hổ rình rập chờ cơ hội để ra tay một cách tàn độc nhất.
Cái ngày ấy rồi cũng đến,đó là cái ngày mà con gái Thiếu tá “Nam”trên Sài Gòn xuống thăm cha.
Bảy Hổ ráng phóng được về núi Cấm, trao lại tấm bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” cho một trong mấy người vợ của y rồi mới chịu chết. Người đàn bà này sau đó trốn qua Miên……
----------------------------------------
ĐHC ngồi trong một cái am nhỏ trên núi Thất sơn, hỏi Thạch Holk “Ông thấy Mười Hổ so với Bảy Hổ thì như thế nào?” - Thạch Holk nói “Mười Hổ có năm điều hơn Bảy Hổ”- “Ông có thể nói cho tôi nghe được không” - “Ông nghe rồi thì nhớ là phải quên đi, có như vậy may ra ông mới dám đứng trước Mười Hổ”
-Thứ nhất : cặp “Thiên Linh, Thiên Nhãn” bây giờ mạnh hơn lúc trước nhiều vì nó được tắm thêm máu của Bảy Hổ.
-Thứ hai : Bảy Hổ là tên thất học, ngu dốt – còn Mười Hổ tốt nghiệp đại học, có bằng bác sĩ do Pháp cấp đàng hoàng. Y nói được 4 thứ tiếng Anh, Pháp,Việt, Miên . Tầm suy nghĩ sâu xa hơn Bảy Hổ nhiều.
-Thứ ba : Bảy Hổ chỉ là tên cướp núi bị chính quyền truy nã. Còn Mười Hổ nay là Giám đốc Công ty XNK nông thủy hải sản, lúa gạo. Giữ chức Chủ tịch hội đồng quản trị, mặc áo Veston, xách cặp táp, đi xe Mercedes, lên xuống Sài Gòn hội họp, ra nước ngoài như đi chợ. Nhiều khi còn lên tivi báo cáo điển hình nữa.
-Thứ tư : Bảy Hổ là kẻ Đại ác, mở miệng ra là nói chuyện tàn ác như giết, cướp, hãm hiếp nên mọi người biết mà tránh xa – Còn Mười Hổ thì ngược lại, mở miệng toàn nói chuyện nhân nghĩa đạo đức. Sau lưng thì giết người nhưng trước mặt thì toàn làm chuyện từ thiện. Thâm chí còn được chính quyền tặng bằng khen nên nhiều người tìm đến kết thân với y.
-Thứ năm : Bảy Hổ kiêu căng, ngạo nghễ đi đâu cũng chỉ hành sự một mình nên rất bất lợi – Còn Mười Hổ đàn em rất nhiều, ngoài cả trăm nhân viên trong công ty, Mười Hổ còn có nhiều đệ tử giang hồ sẵn sàng vì y liều chết.
ĐHC hỏi “Mười Hổ có phải là con của Bảy Hổ không ?” – Thạch Holk cười nói “việc này chỉ có mẹ của y mới biết được chính xác. Nhưng Mười Hổ giống Bảy Hổ ở sự tàn bạo, độc ác, hơn Bảy Hổ ở chỗ nham hiểm, thâm độc, vì thế nhân gian mới có câu “Mười Hổ độc hơn rắn hổ” là như vậy.
Trời bắt đầu chuyển về chiều, những đàn két về tổ bắt đầu kêu vang rừng núi. ĐHC nhìn ra xa xa, một cảnh trời mây sông núi thật là tuyệt đẹp. Ôi chao, ước gì rũ bỏ hết mọi bụi trần, được bình yên mà tu tâm trên núi như ông Thạch Holk này…..
Đêm xuống thật nhanh, Thạch Holk nấu một nồi cơm gạo trắng mời ĐHC. Ông ta quanh năm suốt tháng ăn cơm với muối, hôm nay đặc biệt có khách nên nấu thêm một tô canh đậu hủ trần. Bữa cơm đạm bạc nhưng thật ngon miệng, ĐHC hỏi “những đệ tử của Mười Hổ thì như thế nào ?” Thạch Holk nói “Có 4 người là quan trọng nhất” - Đó là “Lâm Dơi, Sơn Cẩu, Huyền Hòm”, ba người này khét tiếng ở Long Xuyên và Châu Đốc. – “thế còn người thứ tư ?” – “người này không ở đây, bà ta ở bên Miên” – “đó là một người đàn bà ?” – “đúng, là kẻ ghê gớm nhất trong số những đệ tử của Mười Hổ ”.
“Lâm Dơi thì như thế nào ?” – “ Y tên thật là Lưu Đại Lâm, trùm vùng Châu Đốc, ngày ngày chỉ ngồi thâu tiền bến bãi, tiền nhang đèn cúng kiếng cũng đủ có bạc tỷ,…..Sở dĩ y có biệt hiệu là Lâm Dơi vì trên ngực có xăm hình một con dơi cực lớn đang hút máu. Lâm Dơi không biết chữ nhưng bù lại liều lĩnh và tàn bạo không thua gì Mười Hổ”.
“còn Sơn Cẩu thì như thế nào ?” – “nghe đồn y là em cùng cha khác mẹ với Mười Hổ, Sơn Cẩu chuyên tổ chức các vụ cướp đường thủy, buôn người qua biên giới. Cái tài đặc biệt của Sơn Cẩu là lặn nước như rái và phóng dao nhanh như chớp”.
“thế còn Huyền Hòm ?” - Thạch Holk không nói gì, ông cởi áo ra, ĐHC kinh ngạc vì là một nhà tu mà trên ngực ông ta lại có xăm hình, mà lại là hình một cái hòm.
“Nếu muốn tiếp cận với Mười Hổ thì ông cần phải gặp Huyền Hòm trước – Thạch Holk nói – Huyền Hòm hiện là chủ công trường khai thác đá. Tôi có thằng cháu tên Thạch Nguôn, hiện đang làm nghề vác đá thuê, nó sẽ dẫn ông đi”.
Công trường khai thác đá thật ồn ào, tiếng giựt mìn, tiếng xe ben, tiếng đập đá, tiếng chửi thề……hòa trộn tạo thành một thứ âm thanh đinh tai nhức óc.
Thạch Nguôn dẫn ĐHC đến khu lán của Huyền Hòm, y đang nằm trên chiếc võng, xung quanh có ba đệ tử. Nghe nói có người của Thạch Holk đến, Huyền Hòm tỏ ra rất niềm nở, y mời ĐHC ngồi xuống, cùng uống rượu. “Lâu lắm rồi đệ không nghe tin của huynh ấy, anh em hồi xưa lúc nào cũng sống chết có nhau”.
Trời nắng chói chang, Huyền Hòm đứng lên, cao sừng sững, dễ phải đến 1m9. Y cởi trần, da đỏ như màu đồng hun, trên ngực có xăm hình cái hòm y như hình trên ngực Thạch Holk thật, nhưng dòng chữ Miên thì vẫn còn nguyên như minh chứng Huyền Hòm vẫn là đệ tử trung thành cho đến chết với Mười Hổ. Huyền Hòm đầu vuông, mặt vuông, vai vuông, tay vuông, chân vuông, cả người y cái gì cũng cho người ta cái cảm giác là vuông chằn chặn. Y đi chân đất, bàn chân y to và dày khủng khiếp, nhìn là biết “đã dẫm nát bao cát đá”. Còn bàn tay của y chắc còn lớn hơn cả bàn chân……nó gân guốc, sần sùi, chai sạn, chắc là cả núi đá “đã đi qua” bàn tay này. Huyền Hòm đi ra ngoài, sau đó y quay lại ngay, tay xách một cái can to sụ “hôm nay anh em mình phải uống hết can rượu này để mừng huynh Thạch Holk vẫn còn sống khỏe”.
Cuộc nhậu đến gần xế chiều mà khí thế vẫn còn bừng bừng, ba tên đệ tử của Huyền Hòm uống cứ như hũ chìm. Một đứa tên “Bình ngố” cất giọng - “…Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi, đường dài mịt mù em chưa đến nơi, mây nước còn cơn lửa binh, khóc than chi chuyện chúng mình, nói nữa cho thêm tội tình,…. trời ơi bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn….nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu Hà…Bạn tình ơi đừng có hoài công mòn mỏi đợi chờ……”- tiếng vỗ tay, tiếng gõ ly rầm rập - Huyền Hòm hứng chí chỉ cái bao xi măng 50kg dựng phía trước lều nói “mấy thằng vác đá thuê ở đây thằng nào cũng phải dùng một tay nhấc được cái bao kia thì đệ mới cho làm”. Y quay ra nói với đàn em “tụi bay chạy kêu thằng Ngác lại đây coi” – một lát sau có một chú bé đen đủi chạy tới – Huyền Hòm nói “ thằng nhóc này vừa câm vừa điếc, lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác nên gọi nó là thằng Ngác, nó tuy nhỏ con nhưng cũng dùng một tay vác nổi bao xi măng này”. Chú bé xem ra khỏe thật, cậu ta nghiêng vai, dùng một tay bợ lấy bao xi măng nhấc lên cái rụp. Huyền Hòm khoe “mỗi ngày đệ cho thằng Ngác năm chục ngàn để nó mang về nuôi mẹ già”. Y xem ra rất vui vẻ, lừng lững đi đến bao xi măng, nhấc bổng nó lên một cách nhẹ nhàng nhưng không phải dùng tay mà là dùng….hai hàm răng cắn lại.
Chiều chiều, ĐHC hay cùng Năm Ai và vài người trong xóm “lai rai 3 xị”. Mồi ở đây thật vô cùng phong phú, nhưng ngon nhất là món cá lóc đồng nướng đất sét cuốn với rau sống, bánh tráng, vừa thơm vừa ngọt. Nhiều khi có mớ cá kèo nấu lẩu chua lá giang cũng ngon tuyệt. Lâu lâu thằng nhỏ con anh Năm Ai đi đào được mấy con lươn, mà lươn ở An Giang rất đặc biệt, vàng ươm, dài sọc, to cỡ bằng cổ tay là chuyện thường. Lúc đó làm món lươn nấu với bắp chuối non thì nhậu quên thôi. Nơi đây đúng là xứ sở của cải lương, hầu như ai cũng biết ca cổ. Anh Năm Ai ngà ngà là lại xách cây đờn kìm ra “làm” vài bản. Anh khoái nhất là bài “Lòng dạ đàn bà”, “Tướng cướp Bạch Hải Đường”, “A tiên”, “Căn nhà màu tím”…..Giọng anh Năm Ai ca cũng mùi lắm, mỗi khi anh xuống xề là bà con vỗ tay đôm đốp. Lúc đó anh vớ lấy ly rượu uống cạn queo rồi khà một tiếng….Phụ nữ ở đây là dân “gạo trắng nước trong” nên nước da ai cũng trắng ngần, tóc đen mun, răng đều như bắp. Cô con gái lớn của anh Năm Ai khoảng mười bảy mười tám tuổi, ban ngày thì đi học, hôm nào được nghỉ ở nhà thì anh Năm Ai kêu cô bé lại, lúc đó đúng là “cha đàn con hát”. Cô bé đẹp tuyệt trần, cô vén mái tóc lên, hai gò má ửng hồng, khóe miệng tươi như hoa nở, cất tiếng ca :
“Cái chợ có có hồi nào và bao nhiêu tuổi,
mà ai cũng gọi là Chợ Mới quê tôi,
ở nơi đó tôi có một người thương,
chiều chiều nàng ra bờ sông giặt áo…
Ra bờ sông như hẹn lứa đôi ,
mang áo phơi cho anh nhìn mà tình em mong người ơi,
sao nước trôi xuôi dòng sông lững lờ.
Trông bờ sông anh hẹn với em,
mai mốt đây đem cau trầu nhờ người se duyên tình ta,
em chớ lo thêm buồn anh đã thưa cùng mẹ cha.
Duyên chúng ta muôn đời,
như nước trên dòng đầy vơi...
Chúng tôi yêu nhau đã sáu năm rồi mà chưa thành chồng thành vợ, cha thì gật đầu, mẹ lại quay ngang rồi bảo, thằng Tâm nó có cái tánh cọc cằn sợ sau này con Hồng bị nó ăn hiếp, Nên bà con dùng dằng chưa chịu cho hai đứa cùng nhau kết nghĩa châu……trần. Hàng xóm bàn tới bàn lui làm em buồn thiệt là buồn……”
Cái nắng chiều vàng nhạt chiếu lung linh lên gương mặt của người thiếu nữ trong căn nhà lá nhỏ. Gió bên ngoài thổi về mát rượi, thoang thoảng mùi hương lúa mới, mùi đất ẩm, mùi cỏ dại…...làm tâm hồn trở nên ngây ngất…!
0 comments:
Post a Comment