OZ-Tôi đã có dịp đọc hơn trăm câu Dã đàm Tả Ao song sức hiểu có hạn mò mẫm giữa đêm đen, may thay sau này có được một file PRC của tảc giả Cao Trung diễn giải-mà tôi post dưới đây, thật hết sức dễ hiểu, ngôn ngữ bình dị mà ai cũng dễ nhập tâm, thậm chí trong lúc cao hứng trà dư tửu hậu có thể đem ra luận bàn.
Vì vậy đã có ý đưa lên blog nhưng chưa có thời gian chuyển file PRC sang Word, bữa nay ta bà vào trang anh dienbatn thấy anh có đăng nên cọp về đây giới thiệu với những ai thích nghiên cứu tìm hiểu về Phong thủy.
Mong anh dienbatn đánh cho tiểu đệ hai chữ “đại xá” nhé.
TỰA
Của Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ
Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn
Giáo sư Đại học Nhân văn và
Nghệ thuật Viện Đại Học Minh Đức
Cách đây mấy năm ông Cao Trung đã nhờ tôi đề tựa quyển Địa Lý Tả Ao của ông, nay ông lại có nhã ý nhờ tôi đề tựa tập Dã Đàm Tả Ao này.
Tác giả cho biết đây là tài liệu viết tay của ông Nguyễn Tấn Minh thuộc giòng giỏi cụ Tả Ao, viết năm Canh Thìn (cụ Tả Ao tên là Nguyễn Đức Huyên).
Tôi may mắn có bộ sách “Tả Ao chân truyền địa lý” do Hà Kim, Duyên Tự Sơn Nhân hiệu đính, Bất Chuẩn Phiên khắc và hiệu Nghĩa Lợi hàng Đào phát hành năm Kỷ Mùi (1919) đời vua Khải Định.
Tôi đem hai bản so sánh thì thấy hầu hết giống nhau, ngoại trừ một vài chi tiết nhỏ. Như thế là chúng ta có thể vững bụng về phần tài liệu.
Nhưng dù là đọc bản in tại Hà Nội hay bản viết tay của ông Nguyễn Tấn Minh, tôi cũng thấy hết sức khó hiểu. Trái lại khi tài liệu trên vào đến tay ông Cao Trung thì nó lại trở nên khúc chiết, rạch ròi, vì nó đã được ông Cao Trung đem công phu phân thành tiết mục hẳn hoi, nhất là sự bình giải hết sức sáng suốt cặn kẽ.
Tác giả vẫn dùng lối văn giản dị, lối trình bày rõ ràng, lại còn kèm thêm nhiều đồ bản, để minh chứng, giải thích, khiến người đọc có cảm giác rằng: khoa Địa lý cũng không đến nổi quá khó như mọi người thường nghĩ.
Tuy nhiên, tập trước và tập này mới hoàn tất phần căn bản của khoa địa lý. Nếu muốn đi sâu vào chi tiết, nếu muốn nắm vững được hết những huyền vi, ảo diệu của khoa địa lý, là một khoa rất khó trong các khoa Cổ học thuật Trung Hoa, chắc chắn chúng ta còn phải tốn nhiều công phu, đọc nhiều sách vở. Cái đó là điều dĩ nhiên. Tác giả cũng biết như vậy nên đã hứa hẹn cho xuất bản thêm một số tài liệu về khoa này.
Chúng ta sau khi đã đọc qua hai tập địa lý của tác giả hẳn đã hài long và ước ao tác giả mau xuất bản cho đủ toàn bộ khoa địa lý, để chúng ta có đủ tài liệu tham khảo và có được toàn bộ sách quý.
Vì không sành về Địa lý, nên tôi chỉ chú trọng đến sự chính xác của tài liệu, và chỉ biết đề cao phương pháp khảo cứu và bình giải của tác giả, chứ không muốn đi sâu vào chuyên môn.
Tuy nhiên trước khi cho xuất bản tập sách này, tác giả đã đưa cho nhiều bậc lão thành tinh thông về khoa địa lý xem và đã được các vị hết lời khen tặng, như ta thấy trong “Lời mở đầu” của tác giả.
Có một điều tôi muốn lưu ý quý vị độc giả là ông Cao Trung từ nhiều năm nay, đã khổ công nghiên cứu về nhiều bộ môn Đông Phương học. Còn riêng về phương diện học vấn, ông cũng có một căn bản hết sức vững chải, một số vốn liếng hết sức dồi dào. Văn bằng cử nhân Văn khoa, Văn học Việt Nam của ông chính cũng là một sự bảo đảm cho sự hiểu biết của ông. Sau những lời trình bày và nhận định trên, tôi xin nồng nhiệt giới thệu tập sách địa lý Dã Đàm Tả Ao này cùng quý vị độc giả.
Ước mong, đối với quý vị, tập sách này sẽ được đúng như lời cụ Tả Ao:
Báu này yêu tựa ngọc vàng
Được thì nên trọng nên sang, nên giàu
Lấy tín lấy kính làm đầu
Đạo có sở cầu, chí có ắt nên.
Lọ là cưỡi hạc đeo tiền
Trước tiên học lấy thần tiên trên đời…
Sài gòn, ngày 10 tháng 4 năm 1974
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1969 tập Địa Lý Tả Ao (Địa đạo Diễn Ca) ra đời, trong đó chúng tôi có giới thiệu tập Địa lý thứ hai: Dã Đàm Tả Ao (Tầm Long gia truyền bảo đàm) tức là bộ này.
Từ khi xuất bản cuốn thứ nhất cho đến nay, chúng tôi được biết luôn luôn quý vị độc giả mong mỏi có cuốn kế tiếp.
Cuốn thứ hai, lẽ ra có thể xuất bản vào năm 1970 mà cho đến ngày nay 1974 nó mới ra đời, vì có nhiều yếu tố đặc biệt, mà chúng tôi xin trình bày lên quý vị, dưới đây:
1. Cuốn trước nặng về loan đầu, cuốn sau nặng về lý khí và hai cuốn này trở nên một cặp thư hùng về căn bản địa lý. Muốn được như vậy phải chuẩn bị cho nó thật chu đáo mới khỏi phụ lòng độc giả trông mong, mới xứng với tập trước và mới hoàn thành sứ mạng việc soạn thảo cổ thư.
2. Từ trước tới nay, đã có bao nhiêu man thư về địa lý mà toàn dựa vào lý khí để làm man thư nên cuốn này, nặng phần lý – khí, phải làm cho rõ đâu là chân và đâu là cái ngụy của khoa Địa lý, nên tác giả đã phải ôn lại trên mười bộ sách địa lý vừa cổ thư bí truyền vừa có bán trên thị trường để đối chiếu và loại bỏ đi những phần nào có thể dễ làm cho độc giả dễ nhầm lẫn, khi đọc nó. Ngoài ra, cũng phải phân biệt chỗ nào quan trọng, chỗ nào kém quan trọng để nhấn mạnh những chổ quan trọng, cho độc giả mau có ý thức chính xác về phần lý khí, để đỡ nhầm lẫn, bởi nhầm về lý khí thì rất tai hại.
3. Nói là lý khí, nhưng thực thể của nó vẫn là loan đầu. Nếu quân thực thể mà trình bày nguyên những gì trừu tượng, vẫn còn làm cho độc giả khó nhận chân, nên các phần lý khí trên sách đều được tác giả cố gắng dung hòa với loan đầu cho có cả thể (loan đầu) và dụng (lý khí) mới là toàn bích.
4. Phần lý khí, nói hết ra một cách quá phân tích sẽ làm mất hứng thú sáng tác của độc giả, và cũng sẽ lại tạo nên hậu quả tai hại là dễ nệ vào phân tích mà quên tổng hợp. Khoa địa lý cũng như nhiều khoa khác phải sử dụng cả phân tích lẫn tổng hợp cùng một lúc mới thành công.
Do đó tác giả phải dấu những điều tỉ mỉ dễ nhầm lẫn, nhưng thập phần quan trọng vào những câu, những chữ mà chỉ những ai dùng sự tận kỳ tâm, tận kỳ đạo mới khám phá ra. Nếu chỉ đọc không, chỉ lĩnh hội được phần nào sự diệu ảo của nó và vừa đủ cho kiến thức thông thường về địa lý mà thôi.
5. Sau đây lại là sự dung hòa 2 quan niệm mâu thuẩn liên quan đến sự phổ biến khoa địa lý đã làm cho tác giả thắc mắc suốt thời gian soạn bộ sách này:
a. Một là nếu không lưu lại sự chân truyền địa lý thì ít lâu sau khoa này sẽ mai một, đâu còn của báu của tiền nhân.
b. Hai là các chân sư sợ rằng “kẻ tục” sẽ tạo nên thị trường địa lý, dù chưa tinh thông. Như vậy sẽ gây tai hại cho đời, nếu sự phổ biến nó quá dễ dàng.
Sau khi hoàn tất bộ sách này, may thay tác giả đã cố gắng làm trọn được hai quan niệm mâu thuẫn nhau như trên, và các bậc chân sư, sau khi đọc xong bản thảo, đã thở phào nhẹ nhõm và nói:
“Viết sách Địa lý như thế này thì thật là tuyệt diệu. Một trăm, một ngàn năm sau, 2 bộ sách này vẫn là sách chân địa lý. Đời sau đọc nó không còn chê trách tiền nhân ở điểm nào. Thôi chúng tôi cũng an lòng và tán thành việc xuất bản nó”.
Mong rằng quý vị độc giả thông cảm cho những nổi thắc mắc trình bày ở trên.
Để cho có toàn bộ chân địa lý cho người Việt Nam chúng tôi sẽ khai thác các sách địa lý có giá trị như:
1. Địa lý Tả Ao tiên sinh truyền (của cụ Tả Ao).
2. Lưu Xá Hòa Chính bí truyền địa pháp (của cụ Hòa Chính)
3. Dương gia bí pháp (phối hợp địa lý với các khoa địa lý học Đông phương).
4. Bích ngọc kinh (cổ thư địa lý Trung Hoa).
5. Thanh nang kinh (cổ thư Địa lý Trung Hoa).
Từ mấy trăm năm nay sách địa lý có rất nhiều, nhưng phần lớn là man thư, năm bộ sách nêu trên được coi là bậc nhất chân thư. Các bậc tiền bối của chúng ta, chỉ mong mỏi kiếm làm sao cho được một hai bộ trong năm bộ sách kể trên nghiên cứu, là mãn nguyện. Chúng tôi đã dịch xong bộ thứ nhất: Địa Lý Tả Ao tiên sinh truyền. Bộ Địa Lý Tả Ao tiên sinh truyền sẽ ra mắt quý vị độc giả sau bộ này. Bên cạnh bản dịch có kèm theo nguyên bản để tiện tra cứu và so sánh. Chúng tôi được biết vì sự sao chép cổ thư cẩu thả nên hiện nay trên toàn quốc có tới 6 nguyên bản Địa Lý Tả Ao và bản này được coi là chính bản
Sau hết chúng tôi cũng xin thưa trước cùng quý vị độc giả là bộ sách Dã Đàm Tả Ao này được trình bày khác bộ Địa Lý Tả Ao xuất bản năm 1969. Bộ Địa Lý Tả Ao nặng về mô tả và định nghĩa thì bộ Dã Đàm Tả Ao lại bắt đầu thoát phép mô tả, để tiến lên phần luận. Phần luận sẽ làm cho nhiều quý vị mới học ưa thích vì nó như đưa quý vị đến nhiều khía cạnh đặc sắc hơn, nhưng nếu nệ vào nó quá sẽ nhầm lẫn, nên một số các vị chân sư đã muốn chúng tôi bỏ đi. Sau khi xét đi xét lại các vị lại đồng ý là có thể để được, vì nếu học cao hơn, nhất định phải vượt từ mô tả qua luận rồi đến triết mới có hy vọng đạt được phần cao nhất: “khai phóng mà vẫn không sai nhầm” của khoa Địa lý. Đạt được đến đây mới thành chân sư của khoa địa lý. Mong quý vị lưu tâm và chúc quý vị thành công.
Xuân Giáp Dần 1974
Cao Trung
—————————————————-
CHƯƠNG THỨ NHẤT
MỞ
1. Đấng làm quân tử đạo ta
2. Ơn vua, ơn chúa, ơn cha, ơn thầy.
3. Có làm báu cả xưa nay.
4. Văn chương, y dược, đạo này là ba
5. Lấy làm ba Bảo truyền nhà.
6. Song le địa lý thật là thần tiên
7. Học thầy khẩu thụ tâm truyền.
8. Nhiệm màu mọi vẻ, kính tin mười phần.
9. Đạo cao, đức trọng, chưng thân.
10. Hổ long liên phục, quý thần liên kinh.
11. Đức, nhân vốn ở cả mình.
12. Trước là tích đức, sau là tầm long.
CHƯƠNG THỨ HAI
TỪ LONG KHỞI TỔ ĐẾN HUYỆT TRƯỜNG
13. Nẻo xa liền hỏi tổ tông.
14. Bởi đâu hòa đến mạch long địa hình
15. Nước phân chữ bát phân minh
16. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long.
17. Cửa trời, trên đã mở thông
18. Thượng phân là đấy, chính long thực vào.
19. Đến đâu hai nước tống giao
20. Ấy dưới cửa đất, đóng vào cẩn thay
21. Hạ hợp là đất vậy vay
22. Nơi chính thủy tụ, thực hay chẳng nhầm.
CHƯƠNG THỨ BA
24 LONG NHẬP THỦ
23. Đáo đầu nhất tiết hạ chàm
24. Thấu long cho biết lai lâm chữ gì.
25. Biết phương Nam Bắc Đông Tây
26. Hai mươi bốn vị, can chi chữ nào
CHƯƠNG THỨ TƯ
ÂM DƯƠNG THEO LÝ KHÍ
27. Nhận xem cho biết long vào
28. Âm long, âm hướng, thủy toàn phóng âm
29. Dương long, dương hướng chớ nhầm
30. Thủy phóng dương vị, luận âm dụng gì?
CHƯƠNG THỨ NĂM
ÂM DƯƠNG THEO HÌNH THẾ CAO THẤP
31. Âm dương lại có phép kia
32. Âm lai dương thụ, âm su dương hồi
33. Âm là gò đống đất ghềnh
34. Dương là ruộng phẳng đất bằng như lai
35. Núi non kia cũng âm hoài
36. Long cường thì chớ huyệt nơi cao cường
37. Long nhược nơi thấp chớ màng
38. Lai dương hỏa lại dương thì bằng chi.
CHƯƠNG THỨ SÁU
LONG TẢ TOÀN VÀ LONG HỮU TOÀN
39. Ruộng giống ngọc sích tiện vi
40. Dương tả, âm hữu, long chia hai đường
41. Tích phòng Đông chí sinh dương
42. Nãi dương Giáp Tý khí sương tả hành
43. Khởi tự Hợi, Tý phân minh.
44. Tiến lên ngăn ngắn, thuận hành tả biên
45. Qua Dần, Mão đến Tuất, Càn
46. Chuyển Hợi nhập cuộc, chi huyền phân minh
47. Quần tiên đi, có tống nghinh
48. Mạch nào bên hữu đã đành chân long
49. Xa nhận nước ở tả cung
50. Dương thủy chẩy lại, hội đồng thiên tâm.
51. Đạo trời hạ chí sinh âm.
52. Nãi âm Giáp Tý khí lâm hữu toàn.
53. Tòng Tý nghịch suy Hợi, Càn
54. Qua Dậu, Thân, Tuất đến bên Mão, Dần.
55. Nghịch hành về Cấn, Sửu hành.
56. Chuyển tả nhập cuộc ấy phần Dương long
57. Dù hòa thấy nước hữu cung.
58. Âm thủy chảy lại hội đồng giao dương
59. Âm long dương thủy đã tường.
60. Dương long, âm thủy đôi đường gặp nhau.
61. Bên trước nước đã hợp thâu.
62. Lại nhận có đống bên sau chăng là
63. Hoành long thì nước thực thà.
64. Dù chẳng có nước ắt là đối không
65. Âm dương đã có thư hùng
66. Cửa nhà đã hợp vợ chồng liên giao.
67. Ắt là khí dựng thai bào
68. Tự nhiên sinh dục, lẽ nào vậy vay
69. Chân long chính huyệt ở đây
70. Ấy đất hoành kỵ lời thầy truyền ta
71. Kết thoái dư khí còn xa
72. Hoặc đi trăm dặm mới ra chiêu thần.
CHƯƠNG THỨ BẢY
THỦY PHÁP
73. Muốn sinh: tử tức, vượng nhân.
74. Thì tim sinh vị bản thần triều lai
75. Muốn thăng: quan tước, lộc tài
76. Thì tìm Vượng vị, thủy lai hội đường.
77. Cứ nơi mạch ấy cho tường
78. Tả thuận hữu nghịch, đôi đường cho thông.
79. Lập huyệt, tọa hướng, mới dùng
80. Cứ phép bão lại, Huyền Không Ngũ Hành.
81. Cứ như thủy pháp Nang Kinh
82. Kim, Mộc, Thủy, Thổ thông minh như lề
83. Năm hành phỏng luận mộc vi
84. Bính mộc Giáp, Ất, Giáp thì mộc dương
85. Ất là âm mộc đã tường
86. Phỏng đây suy biết âm dương ngũ hành.
87. Cứ đó mà khởi tràng sinh.
88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung
89. Hợi thuận, Ngọ nghịch hai dòng.
90. Hẳn còn xuôi ngược cho thông một vì
91. Nước sinh nước vượng chầu về
92. Nước Tử, nước Tuyệt chảy đi mặc lòng.
93. Cứ hướng làm chủ bản cung
94. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa cho thông hướng nào.
95. Nhất thì được nước sinh vào
96. Nhì thì được nước khắc vào hướng ta
97. Mong sao sinh khắc đến ta.
98. Là nước ấy có ích chí ta hòa dùng.
CHƯƠNG THỨ TÁM
LUẬN: THẤU LONG
99. Phép trong Ngọc sích đã thông.
100. Bèn mới lại luận thấu long cho tường
101. Nhâm long ngôi ở đầu hàng.
102. Bính Tý chính khí một phương chớ rời.
103. Khảm Long, Canh Tý chính ngôi.
104. Quý long: Đinh Sửu là nơi bản về
105. Sửu long: Tân Sửu kể đi
106. Cấn long chẳng lệch hào ly: Mậu Dần
107. Dần long: chính khí Nhâm Dần.
108. Giáp long: Đinh Mão là phần chính cung.
109. Mão long: Quý Mão thì dùng.
110. Canh Thìn chính khí: Ất long đang quyền.
111. Thìn long: chính khí Giáp Thìn.
112. Tốn long: Tân Tỵ đã yên một dòng.
113. Tỵ long: Ất Tỵ thấu long
114. Bính long: Nhâm Ngọ phép trong nhiệm mầu.
115. Ngọ long: Bính Ngọ làm đầu.
116. Thánh hiền truyền dậy trước sau ghi lòng.
117. Quý Mùi: là chính Đinh long
118. Mùi long: Đinh Vị, Khôn dòng: Giáp Thân.
119. Mậu Thân: chính khí long thân.
120. Canh long: Ất Dậu là phần chính Canh.
121. Kỷ Dậu: chính khí Đoài tinh
122. Bính Tuất: chính khí địa hình long Tân.
123. Tuất long: Canh Tuất bản phần
124. Càn long: Đinh Hợi sai phân chớ hề.
125. Hợi long, Tân Hợi một vì
126. Dành dành chính khí thấu suy đã tường.
CHƯƠNG THỨ CHÍN
LUẬN: HƯỚNG HUYỆT CỦA 24 LONG
127. Lai luận: long, hướng các phương.
128. Tà khí, tạp, bác, âm, dương cho thuần.
129. Nhâm long: ba hướng khả phân.
130. Phương: Ngọ, Khôn, Ất xoay vần kể chi.
131. Tý Long: Khôn hướng về một bề
132. Quý long: hay huyệt hướng về Ngọ, Khôn
133. Sửu long: Bính hướng vi tôn
134. Cấn long tám huyệt kể tồn từng ngôi:
135. Bính, Đinh, Canh, Tân, Tỵ, Mùi
136. Tốn, Đoài tám hướng, trạch chính an ngôi
137. Dần long: hai hướng Khôn, Thân
138. Giáp long: định hướng về phần Càn Khôn
139. Mão long: bốn hướng kể rồn
140. Canh, Tân, Đinh, Hợi đã yên một bề
141. Ất long: khôn hướng một vì
142. Thìn long: hai huyệt hướng về Càn, Khôn
143. Tốn long: Tân, Hợi, Cấn môn
144. Dụng ba hướng ấy là khôn sánh tày
145. Tỵ long: một hướng Hợi thần.
146. Bính long, bốn huyệt kể bày làm nơi
147. Hợi, Canh, Tân, Cấn, hướng ngôi
148. Ngọ long: hai hướng về trời: Quý, Nhâm
149. Đinh long: Cấn, Hợi thuần âm.
150. Mùi long: một hướng cục nhằm: Cấn ly
151. Khôn long: phương Quý hướng đi
152. Thân long: Quý, Giáp hai vì cho minh
153. Hướng: Mão, Cấn là long Canh
154. Cấn, Tốn, Tỵ hướng đã đành: Dậu Long
155. Tân long: Tốn, Mão, Cấn cung
156. Ngồi một hướng Ất: Tuất Long địa bàn
157. Cùng theo hướng Ất: Long Càn
158. Bính, Tốn, Đinh hướng Long đồng: Hợi long
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
KẾT LUẬN
159. Âm long, Âm hướng thủy đồng.
160. Dương long, Dương hướng Thủy cung một bề
161. Âm, Dương đều đã hòa suy
162. Mọi đều nhiệm nhặt, trước suy đã tường.
163. Báu này, yêu tựa ngọc vàng
164. Được thì nên trọng, nên sang, nên giàu.
165. Lấy tín, lấy kính làm đầu.
166. Đạo có sở cầu, chí có ắt nên.
167. Lọ là cưỡi hạc, đeo tiền
168. Trước tiên học lấy thần tiên trên đời
169. Ắt là gọi có chúa tôi.
170. Mưa móc ơn trời, phúc thay thượng thư
171. Hòa nhà phú quý phong lưu
172. Con con, cháu cháu thiên thu dõi truyền.
173. Đến khi vui đạo Thánh Hiền
174. Ứng lời học trước, thần tiên chép bàn.
TẢ AO TIÊN SINH
Tờ 1. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM
Tờ 2. Nguyên bản Tầm Long Gia Truyền Bảo Đàm
Tờ 3. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM
Tờ 4. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM
Tờ 5. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM
Tờ 6. Nguyên bản TẦM LONG GIA TRUYỀN BẢO ĐÀM
————————————————–
CHƯƠNG THỨ NHẤT
MỞ
1. Đấng làm quân tử đạo ta
2. Ơn Vua, ơn Chúa, ơn Cha, ơn Thầy
Tìm hiểu học thuật tư tưởng trong văn học sử Việt Nam , kể từ nhà Đinh là thời kỳ bắt đầu được tự chủ cho đến đời cụ Tả Ao, ta thấy có 4 giai đoạn:
1. Thời Đinh, Lê (tiền Lê), mỗi triều đại chỉ được một hai đời vua. Hai triều đại này vì dùng võ công tranh thủ tự chủ, và tư tưởng, học thuật chưa được phát triển, do đó chưa tạo lập được văn hóa độc lập, làm nền tảng cho văn hóa chỉ đạo dân tộc. Rồi khi sức mạnh quân sự không còn nữa, là tàn rụi. Đấy là lý do sâu xa của sự ngắn ngủi 2 triều đại Đinh, Lê.
2. Đến đời Lý, nhờ có Vạn Hạnh thiền sư, sau khi giúp Lý Công Uẩn lên ngôi cửu ngũ, lại khéo đem Phật học, dung hòa Nho và Lão – tạo ra tinh thần tam giáo làm nòng cốt cho tư tưởng, học thuật, nên quốc gia bền vững và nhà Lý làm vua đến 8 đời.
3. Tiếp theo, đời Trần nhờ sẵn tinh thần tam giáo hun đúc từ Lý triều, khả dĩ có sức mạnh tinh thần tiềm tàng đáng kể, lại thêm có vua Thánh, tôi Hiền cũng nên cũng thịnh trị và chiến thắng oanh liệt được quân Nguyên, giữ được nền độc lập để tiếp tục phát huy văn hóa dân tộc.
Ngoài ra nhà Trần lại cố gắng phát triển Nho học, để xã hội được tổ chức theo kịp trào lưu văn minh Nho giáo (dù các Vua nhà Trần đều mộ đạo Phật). Đạo Nho nhờ đó mới có cơ sở và trường thành được vào Triều Lê.
4. Đến đời Lê thì Nho giáo không những trưởng thành, mà còn trở nên gần như lấn át cả Phật và Lão. Đóng vai trò quan trọng trong tinh thần tư tưởng học thuật Việt Nam . Cụ Tả Ao sinh vào cuối đời Lê dù là nhà địa lý cũng bị ảnh hưởng sâu đậm của tinh thần này, nên câu mở đầu bài Tầm Long Gia Truyền Bảo Đàm, ta đã thấy ngay tinh thần nho giáo.
(1) Đấng làm quân tử đạo ta
Đạo ta là đạo làm người quân tử của Nho giáo. Nho giáo phân biệt 2 hạng người:
Quân tử và tiểu nhân. Người quân tử thì phải lấy tam cương và ngũ thường làm gốc, kẻ tiểu nhân thì không thể.
Tam cương là:
- Quân (Vua)
- Sư (Thầy)
- Phụ (Cha)
Ngũ thường là:
- Nhân
- Nghĩa
- Lễ
- Trí
- Tín
Rồi đến câu thứ hai, cụ phải trước tiên, chứng tỏ tinh thần tôn quân: ơn Vua, Chúa trước rồi đến Cha và Thầy sau.
(2) Ơn Vua, Ơn Chúa, Ơn Cha, Ơn Thầy
Nhưng đời cụ Tả Ao có vua Lê lại có cả Chúa Trịnh nữa, mà Chúa Trịnh lại quyền hành hơn Vua Lê, nên cụ Tả Ao không dám chỉ nói đến vua, mà phải nói đến cả Vua lẫn Chúa, cho Chúa Trịnh khỏi nghi ngờ (ơn Vua, ơn Chúa, ơn Cha, ơn Thầy).
(3) Có làm báu cả xưa nay
(4) Văn chương y dược đạo này là ba
Các nho sĩ chú trọng nhất là văn chương, nhì đến y lý, ba đến địa lý và cuối cùng đến lý số.
Cái học của Nho gia không phải chỉ giới hạn vào từ chương, thơ phú mà là môn học bao gồm kiến thức của người cán bộ Nho giáo, trong đó có phép giữ đạo làm người (đạo đức), rồi đến cách thờ Vua giúp nước (kể cả chính trị lẫn quân sự). Một nho sĩ muốn là nhà chính trị và quân sự giỏi, thì trên phải thông thiên văn, dưới phải đạt địa lý, ngoài ra phải biết các khoa bói toán, để trù liệu và hỏi thần linh những gì mà con người không thể quyết định được chắc chắn. Nhà Nho, nếu tiến lên thì làm quan. Khi lui lại thì phải “đạt vi sư”.
Với quan niệm đó, nhà nho nếu một khi không làm nổi công nghiệp thì các cụ sẽ quay về nghiên cứu y lý để chữa bệnh cho thiên hạ, đó cũng là một cách hành đạo tiêu cực. Những y sĩ có tâm đạo chỉ cốt làm thuốc để giúp đời hơn là cốt làm giàu. Họ làm nghề này với mục đích chính là chữa bệnh cứu đời, dù có tiền hay không cũng chữa. Con bệnh nếu có tiền trả thì y sĩ cũng không nỡ tính tiền công quá đáng – Kẻ nghèo khó cũng được tận tâm săn sóc như người sẵn tiền. Có những vị làm thuốc chỉ mong đủ ăn. Thân chủ đông thì lại tính tiền thuốc nhẹ đi. Nhiều vị, chỉ tính tiền thuốc sao cho đủ chi dùng một cách khiêm nhường, để hành nghề, chứ không mong là khi được đông thân chủ, lại càng tính giá cao, để làm giàu. Làm thuốc như vậy, cũng là một cách thế hành đạo ở đời.
Sau Y Lý đến khoa địa lý. Nếu nho học, các cụ gọi là đạo nho, y lý cũng là đạo làm thuốc thì khoa địa lý cũng là đạo địa lý, bởi vì nhà chân địa lý, cũng dùng sự hiểu biết của mình để làm việc chu toàn mối đạo, mà thánh hiền đã đề xướng. Đạo địa lý khác hẳn những thầy địa lý “xôi thịt”. Người xưa học địa lý trước là báo hiếu. Họ cố tìm cho được ngôi đất kết để giữ nắm xương tàn của cha mẹ cho lâu tiêu hủy thành đất. Họ nghĩ rằng khi xương cốt ông bà, cha mẹ, chưa thành đất, thì người vẫn có thể, luôn luôn trở về, sống trên bàn thờ, ở trong gia đình, với con cháu phù hộ và giúp đỡ con cháu, cùng dự phần vui buồn với người sống. Sau nữa, nếu được đất kết thì con cháu cũng nhờ có ngôi đất đó mà làm ăn hưng phát, dài dòng lớn họ, vẻ vang cho người đã quá cố. Ngoài ra, nhờ có đất kết, mà dòng giỏi trở nên trâm anh, thế phiệt, giữ được danh thơm truyền thống và để cha mẹ đã quá cố cũng được vui lòng, dù người đã không còn sinh sống với con cháu, trên cõi trần gian này nữa.
Học địa lý, ngoài cách báo hiếu như kể trên,, các cụ còn dùng sự hiểu biết địa lý của mình để làm việc nghĩa. Các cụ thấy ai nhân đức, hiền lành, mà quá nghèo, hoặc không có con trai nối dõi, thì các cụ có sứ mạng thay trời giúp cho người nhân đức đó một ngôi đất “cứu bần” hoặc “thêm đinh”. Cũng có khi các cụ dành những ngôi đất kết rất lớn cho những ai có công với quốc gia xã hội. Các cụ tin rằng làm địa lý giúp đời như thế, lại còn tạo thêm đức cho nhà mình cũng như là mình làm một nghĩa lớn vậy. Ngoài ra, nhà địa lý chân chính, không bao giờ vì tiền, mà để đất lớn cho những người kém đức. Làm địa lý với ý hướng như trên, cũng là hành đạo như chân nho sĩ và chân y sĩ. Do đó, cụ Tả Ao cho khoa địa lý cũng là đạo, và văn chương, y dược, địa lý là ba đạo:
(4). Văn chương, y dược đạo này là ba
Nho, y, lý, số là 4 nghệ của nho sĩ, nhưng lý số các cụ cho là phụ, vì khoa bói toán ít thiết yếu cho việc hành đạo. Các cụ chỉ quý có 3 thứ trên: Nho, Y và địa lý. Các cụ gọi 3 khoa này là 3 của báu của con người tri thức. Nếu có gì sở đắc thì nên truyền lại cho con cháu để hậu thế dễ có phương tiện, tiếp tục hành đạo.
(5). Lấy làm ba bảo truyền nhà
Tuy khoa địa lý là của báu thứ ba, trên khía cạnh hành đạo, nhưng khoa nàylại có một cách thế đặc biệt, khiến cho người có tâm hồn phóng khoáng, yêu thiên nhiên, cỏ cây, non nước, khi thực hành thì nó thấy mình có những thú vị thần tiên.
(6). Song le địa lý thật là thần tiên
Tâm hồn Á Đông (là tâm hồn tổng hợp) khác với Tây phương (chú trọng về phân tích). Tây phương: có làm việc, dĩ nhiên họ có du hý, nhưng sự làm việc và du hý bên Á Đông lại liên kết với nhau một cách chặt chẽ hơn Tây Phương. Ta thấy những văn thơ tỏ ý chí hành động của người Á Đông, luôn luôn có ý chí hành lạc bên cạnh. Những thơ văn của Nguyễn Công Trứ, tỏ rỏ sự bất phân biệt hành lạc và hành động, một cách rõ rệt. Con người tổng hợp Á Đông khi hàn vi nhàn du thì nghĩ đến sẽ thực hiện chí hướng và khi đang thực hiện chí hướng lại mơ màng đến sự hưởng lạc cho tâm hồn được quân bình. Thế mà khoa địa lý lại còn hơn thế nữa, nó cộng luôn việc làm với hưởng lạc vào một lúc.
Con người địa lý ra ngoài thiên nhiên tìm đất kết, đồng thời họ thực hiện các cuộc thú vui du sơn du thủy.
Cái thú “Ngao du nơi hàn cốc, thanh san” là cái thú hưởng lạc với thiên nhiên của Nguyễn Công Trứ, sau khi công thành danh toại, sau khi đã sống đủ và đã làm trọn chí trai. Nhưng với nhà địa lý thì hành lạc lại đồng thời một lần với hành nghề. Ngao du đó đây là cách hành lạc của đạo Lão, đạo Tiên. Đi vào thiên nhiên, nhìn núi xanh, mây trắng, ánh chiếu vàng, nhìn cỏ non đượm sương mai lóng lánh, nghe suối chảy rì rào bên rừng thu vắng, đem nhân giới nhập vào nhiên giới, nối cái hữu hạn của loài người vào cái vô hạn của vũ trụ, là thú thanh tao, thần tiên, say đắm, thích hợp cho tâm hồn có vũ trụ chi tâm.
(6) Song le địa lý thật là thần tiên
Khoa địa lý, nếu ta gọi là một nghề, thì nghề này cũng có nghệ thuật như các nghề thơ, họa, kiến trúc v.v… khác. Có nghệ thuật thì có sáng tác. Khoa địa lý trong lúc hành nghề, tâm trạng con người khi nhìn núi sông sắp xếp do thiên nhiên, họ thấy sống động khác thường. Sống động theo lẽ biến dịch đủ cả âm dương, ngũ hành của dịch lý. Họ không coi đất đai đồi núi là những vật vô tri, xa lạ mà coi nó như những sinh vật rất gần gũi với người. Đó là phép nghi nhân và thác vật của những tâm hồn nghệ sĩ. Trong câu thơ “Gió đưa cành trúc la đà” ta thấy vật giới (cây trúc) cũng ngã nghiêng la đà, như con người say cảnh thiên nhiên lòng rộn nỗi niềm. Nhà thơ mời Hàn Mạc Tử cũng đưa sinh khí, cảm giác của con người vào tĩnh vật; một hình thức thác vật rất sinh động: “Chiếc thuyền im bến mới trở về nằm. Nghe chất muối thắm dần trong thớ vỏ”.
Thác vật, để cho vật vô tri trở thành có ý nghĩa, có sinh động thì nhà Địa lý nhà nghệ sĩ thiên nhiên với quan niệm dịch lý cũng nhìn toàn thể vật vô tri như: sông núi, cỏ cây, là những cái gì sống động, có sinh hoạt như người, sinh hoạt theo dịch lý.
Này, núi cao là tượng âm thì chỗ thấp, bằng là dương, núi chủ tĩnh thì nước ngược lại, chủ động. Mạch đang âm (cao) thì chạy đến chỗ kết huyệt, nó phải đổi sang dương (bằng) cũng như mạch chạy dương (bằng) thì kết huyệt lại chuyển âm (cao). Thậm chí trong vỏ đất, họ cũng cho là có luồng sinh khí luân lưu, chạy từ tổ sơn về, theo núi phân chia ra nhiều mạch, mỗi mạch chạy đến chỗ nào đủ hợp, đủ độ âm dương thì khí mạch đó tụ lại, kết huyệt, cũng như ngựa cây trong thân cây đến chỗ nào tụ lại thì đâm bông, kết trái, tạo nên sự hiển dương tinh hoa của cây cỏ.
Nhìn thế đất từ tổ sơn đi ra, họ cũng có quan niệm như nhìn cuộc di hành của một đám rước, hoặc cuộc đưa đón một đại quan trên lộ trình. Khi đang đi, thì có long, sa và thủy, hộ vệ, hai bên quân gia, tiền hô, hậu ủng, khi kết huyệt thì giống như chỗ khai triều của vị Đế Vương hay nơi khai đường của một vị Đại quan; cũng có tứ linh xung quanh, có bút nghiên ở gần, có án ở đằng trước, có kỳ ở sau lưng, có tay phải tay trái ôm vòng như vị đường quan hoặc vị đế vương ngồi nghị sự, ngồi khai triều phê sớ, phê án v.v… hoặc khung cảnh vị võ quan đang chỉ huy ba quân. Cách thác vật và ghi nhân của nhà địa lý sinh động như thế. Những cuộc đất nhỏ độ vài mẫu, lớn độ vài chục, vài trăm, vài ngàn mẫu đều được thu vào nhãn quan họ, thành những hiện trạng, tuy đa hình, không cuộc đất nào giống cuộc đất nào, nhưng cùng một nguyên tắc dịch lý, thoát thai của triết học Đông phương: Thế rồi, những nhà địa lý, mỗi khám phá ra một cuộc đất là một sáng tác khác nhau. Mỗi sáng tác lại cho nhà địa lý thêm một số tiền kinh nghiệm để làm vốn sáng tác những thế đất kế tiếp khác. Kỳ lạ là sáng tác lại là công việc tìm ra vẻ đẹp của cái gì đã có sẵn trong thiên nhiên. Mỗi lần đối cảnh lại mỗi lần sáng tác thêm.
Như vậy nhà địa lý cũng là nhà nghệ sĩ thiên nhiên và nói cách khác là nhà nghệ sĩ “thần tiên” với tinh thần đó, nhà nghệ sĩ Tả Ao hạ bút phê câu:
(6) Song le địa lý thật là thần tiên
thì thật là tuyệt.
(7) Học thầy khẩu thụ tâm truyền
(8) Nhiệm màu mọi vẻ kính tin mười phần
Hai câu trên cụ Tả Ao muốn xác định lại giá trị của khoa địa lý. Từ trên cả ngàn năm nay, nó là khoa bí hiểm nhất của huyền học Á Đông. Có nhiều chứng cớ cho thấy là nó có thật. Đó là những ngôi đất kết phát, tạo ra bao nhiều anh hùng, hào kiệt, vua chúa, phú ông, văn sĩ v.v… Nhưng mặt khác, nó lại gieo vào lòng nhiều người mối nghi ngờ, bởi có nhiều người học nó mà không đạt được kết quả, dù những vị đó là những nhà khoa bảng, tiến sĩ, cử nhân, văn hay, chữ tốt, học rộng tài cao! Cho đến nay mối nghi ngờ đó vẫn còn làm nhiều người nghiên cứu nó phải thắc mắc, nhất là các nhà học giả tây phương đã đem các phương pháp khoa học để tìm hiểu nó, giải thích nó mà hình như nó vẫn lẫn trốn. Những sách khảo cứu về địa lý của Tây phương, có rất nhiều nhưng có một quyển sách mà người Âu Tây cho là có giá trị nhất do học giả Ernest J Eitel…M.A.Ph.D of the London Missionary Society viết. Sách này được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Một vị giám đốc viện bảo tàng Quimet của Pháp tên là M.L.de Moutillé cũng dịch quyển này sang tiếng Pháp lấy tên là:
FENG SHOUI
ou
Principes de sience nafurelle de Chine
Sau khi đọc nó xong chúng tôi sực nhớ đến một cuộc đàm luận về địa lý và câu nói của một vị chân sư Địa lý Việt Nam đã 40 năm nghiên cứu và thực hành địa lý như sau:
“Khoa địa lý này, người Âu Châu đã nhiều trăm năm cố khám phá, trong đó có cả các vị Cố đạo, các nhân viên các tòa đại sứ. Nhưng đến nay họ vẫn không đạt được chân địa lý”.
Chúng tôi hỏi về lý do thì vị này trả lời “Phi người Á Đông có tâm hồn đạo, tâm hồn dịch lý của Á Đông, gặp được chân sư chỉ điểm, có chân thư để học và yêu nó rồi thực hành nó nhiều năm trên đất thì không thể nào đạt được khoa này. Suy ngẫm ra, riêng tôi thấy là đúng vì quyển sách coi là giá trị về Địa lý mà người Âu Tây đắc ý kể trên, sau khi xem xong, riêng tôi cũng nhận thấy quyển đó chưa trình bày được 1/3 chân địa lý, bởi lẽ giản dị nhất là nó mới chỉ có cái nhìn vật chất và phân tích một cách phiến diện mà thôi.
Có vị hỏi thế còn sách Địa lý bằng chữ Hán thì sao? Có giá trị và đầy đủ không?
Thưa rằng: Khoa Địa lý có nhiều bí ẩn liên quan đến sự thực hành trên đất mà các sách không sao nói được hết. Nghiên cứu nó mà không có thì giờ thực hành thì dù có sách hay cũng phải thiếu sót quá nữa. Có thực hành mà không được chân sư thì điểm cho thì cũng tốn nhiều công lao vô ích:
Thì đây cụ Tả Ao, con người học được chân thư, chân sư và thực hành địa lý mấy chục năm liền đã chỉ cho ta biết khoa Địa lý thuộc về tâm học chỉ thụ đắc khi được khẩu thụ tâm truyền:
(7) Học thầykhẩu thụ, tâm truyền
(8) Nhiệm màu mọi vẻ kính tin mười phần
Nghĩa là ngoài sách vở ra, muốn nắm bắt được hết tinh hoa của Địa lý phải có chân sư tâm truyền và truyền bằng miệng (khẩu thụ) mới hết chỗ ẩn ảo. Được như vậy mới học được hết nhiệm màu của địa lý và lúc đó mới thấy đúng, mới tin tưởng địa lý.
(9) Đạo cao đức trọng chung thân
(10) Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh.
Tuy nhiên phần kết luận ở lời mở này, cụ cũng cho biết là dù có giỏi địa lý cũng chưa chắc hưởng được đất quý, nếu không có đạo cao đức trọng. Hình như có quỷ thần trông coi các ngôi đất lớn.
Có đạo cao đức trọng, sẽ có phúc mà người có phúc thì mới xứng đáng được đất lớn, mà không có hại. Hai câu trên cụ Tả Ao lấy ý nghĩa của câu chữ Hán dưới đây:
Đạo cao: long, hổ phục (đạo cao rồng, hổ cũng phải phục).
Đức trọng: quỷ thần kinh (đức trọng quỷ thần cũng phải sợ) để nhắc ta cần tu nhân, tích đức, trước khi lo việc tìm đất kết.
(11). Đức nhân vốn cả ở mình
(12). Trước là tích đức sau là tầm long
Đất kết là của báu của thế gian trời dành cho người có đức. Đức không phải tự nhiên rơi xuống cho mà chính con người phải tạo ra mới có. Có đức rồi sau mới nên tìm đất kết.
CHƯƠNG THỨ HAI
TỪ LONG KHỞI TỐ ĐẾN HUYỆT TRƯỜNG
13. Nẻo xa liền hỏi tổ ông.
14. Bởi đâu hòa đến, mạch long địa hình
15. Nước phân chữ bát phân minh
16. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long
17. Cửa trời, trên đã mở thông
18. Thượng phân là đấy, chính long thực vào.
19. Đến đâu, hai nước tống giao
20. Ấy dưới của đất, đóng vào cẩn thay
21. Hạ hợp, là đấy vậy nay
22. Nơi chính thủy tụ, thực hay chẳng nhầm.
(Còn nữa)
0 comments:
Post a Comment