137. Dần Long hai
hướng: Khôn, Thân (hình 12)
Hình 12: Dần Long
Giải thích câu 137 (hình 12)
Nếu là Dần long thì hay có 2 hướng huyệt:
1. Tọa Cấn hướng Khôn
2. Tọa Dần hướng Thân.
138. Giáp Long Đinh hướng về phần:
Càn Khôn
Hình 13: Giáp Long
Giải thích câu 138 (hình 13)
b). Nếu là Giáp long hay có 2 hướng
huyệt:
1. Tọa Tốn hướng Càn
2. Tọa Cấn hướng Khôn
139. Mão Long 4 hướng kể rồn (hình 14)
140. Canh, Tân, Đinh, Hợi đã yên một bề.
Hình 14: Mão Long
Giải thích câu 139 – 140 (hình 14)
Nếu là Mão long thì hay có 4 hướng huyệt:
1. Tọa Giáp hướng Canh
2. Tọa Ất hướng Tân
3. Tọa Quý hướng Đinh
4. Tọa Tỵ hướng Hợi.
141. Ất Long : Khôn, Hướng một vì (hình 15)
Hình 15: Ất Long
Giải thích câu 141 (hình 15)
Nếu là Ất long thường hay có 1 hướng
huyệt:
Tọa Cấn hướng Khôn
142. Thìn Long : Hai huyệt hướng về Càn, Khôn
(hình 16)
Hình 16: Thìn Long
Giải thích câu 142 (hình 16)
Nếu là Thìn long hay có 2 hướng huyệt:
1. Tọa Tốn hướng Càn
2. Tọa Cấn hướng Khôn
143. Tốn Long : Tân, Hợi, Cấn Môn (hình 17)
144. Dụng 3 hướng ấy là Khôn sánh tày
Hình 17: Tốn Long
Giải thích câu 143 – 144 (hình 17)
Nếu là Tốn long hay có 3 hướng huyệt:
1. Tọa Ất hướng Tân
2. Tọa Tỵ hướng Hợi
3. Tọa Khôn hướng Cấn.
145. Tý Long một hướng: Hợi Thần (hình 18)
Hình 18: Tỵ Long
Giải thích câu 145 (hình 18)
Nếu là Tỵ long hay có 1 hướng huyệt:
- Tọa Tỵ hướng Hợi
146. Bính Long 4 huyệt kể bày làm nơi (hình 19)
147. Hợi, Canh, Tân, Cấn hướng ngôi
Hình 19: Bính Long
Giải thích câu 146 – 147 (hình 19)
Nếu là Bính long hay có 4 hướng huyệt:
1. Tọa Tỵ hướng Hợi
2. Tọa Giáp hướng Canh
3. Tọa Ất hướng Tân
4. Tọa Khôn hướng Cấn.
148. Ngọ Long Hai hướng về trời: Quý, Nhâm
(Hình 20)
Hình 20: Hợi Long
Giải thích câu 149 (hình 20)
Nếu là Ngọ long hay có 2 hướng huyệt:
1. Tọa Đinh hướng Quý
2. Tọa Bính hướng Nhâm
149. Đinh Long Cấn, Hợi, Thuần Âm (hình 21)
Hình 21: Đinh Long
Giải thích câu 149 (hình 21)
Nếu là Đinh long hay có 2 hướng huyệt đều
là âm hướng:
1. Tọa Quý hướng Đinh
2. Tọa Tỵ hướng Hợi.
150. Mùi Long: Một hướng, cục nhằm: Cấn Ly (hình
22)
Hình 22: Mùi Long
Giải thích câu 150 (hình 22)
Nếu là Mùi long hay có 1 hướng huyệt:
Tọa Khôn hướng Cấn.
151. Khôn Long: Phương Quý kể đi (hình 23)
Hình 23: Khôn Long
Giải thích câu 151 (hình 23)
Nếu là Khôn long, hay có một hướng huyệt:
Tọa Đinh hướng Quý.
152. Thân Long: Quý, Giáp, Hai vì cho minh (hình
24)
Hình 24: Thân Long
Giải thích câu 152 (hình 24)
Nếu là Thân long hay có 2 hướng huyệt:
1. Tọa Đinh hướng Quý
2. Tọa Canh hướng Giáp.
153. Hướng Mão: Mão, Cấn là Long Canh
(hình 25)
Hình 25: Canh Long
Giải thích câu 153 (hình 25)
Nếu là Canh long, hay có 2 hướng huyệt
1. Tọa Dậu hướng Mão
2. Tọa Khôn hướng Cấn
154. Cấn, Tốn, Tỵ hướng đã đành Dậu Long
(hình 26)
Hình 26: Dậu Long
Giải thích câu 154 (hình 26)
Nếu là Dậu long hay có 3 hướng huyệt:
1. Tọa Khôn hướng Cấn
2. Tọa Càn hướng Tốn
3. Tọa Hợi hướng Tỵ.
155. Tân Long: Tốn, Mão, Cấn Cung (hình 27)
Hình 28: Tuất Long
Giải thích câu 156 (hình 28)
Nếu là Tuất long hay có 1 hướng huyệt:
1. Tọa Canh hướng Ất.
157. Cũng theo Ất hướng Long Càn (hình
29)
Hình 29: Càn Long
Giải thích câu 157 (hình 28)
Nếu là Càn long hay có một hướng huyệt:
1. Tọa Tân hướng Ất.
158. Bính, Tốn, Đinh, Hướng, Long Đồng Hợi
Long (hình 30)
Hình 30
Giải thích câu 158 (hình 30)
Nếu là Hợi long hay có 3 hướng huyệt:
1. Tọa Nhâm hướng Bính
2. Tọa Càn hướng Tốn
3. Tọa Quý hướng Đinh.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
ĐOẠN KẾT
159. Âm long, âm hướng, thủy đồng.
160. Dương long, dương hướng, thủy cung
một bề.
161. Âm dương đều đã hòa suy
162. Mọi điều nhiệm nhặt, trước suy đã
tường
163. Báu này yêu tựa ngọc vàng
164. Được thì nên trọng, nên sang, nên
giàu.
165. Lấy tín, lấy kính, làm đầu
166. Đạo có sở cầu, chí có ắt nên.
167. Lọ là: cưỡi hạc, đeo tiền
168. Trước tiên học lấy thần tiên trên
đời
169. Ắt là gọi có: chúa, tôi
170. Mưa móc ơn trời, phúc thay thượng
thư
171. Hòa nhà phú quý, phong lưu
172. Con con, cháu cháu, thiên thu dõi
truyền
173. Đến khi vui đạo thánh hiền
174. Ứng lời học trước, thần tiên, chép
bàn.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
ĐOẠN KẾT
Tất cả căn bản về địa lý, đều ở hai chữ
Âm dương
Chương thứ nhất là “Mở” cũng đã có Âm
dương. Đây là âm dương trên đạo lý. Đưa ra đạo quân tử là đạo dương (quẻ
Càn trong Kinh dịch) trái lại với nó là đạo âm (quẻ Khôn trong kinh
dịch).
Chương thứ hai là “từ long khởi tổ đến
huyệt trường” cho ta thấy: khi nước mở cửa cho long đi là dương, rồi lúc
nước đóng lại, để long vào kết huyệt là âm. Trong Kỳ Môn Độn Giáp có
nói: giờ chẵn là giờ dương là mở, giờ lẻ là giờ âm là đóng. Như vậy mở
đóng cũng là trạng thái âm dương.
Chương thứ ba nói về “24 long” trong đó
có 12 âm long và 12 dương long. Âm dương ở đây thật là rõ rệt.
Chương thứ tư nói về “Âm dương theo lý
khí”.
Chướng thứ năm nói về “Âm dương theo hình
thể đất”.
Cao là Âm và thấp bằng là Dương.
Chương thứ sáu nói về “Long tả toàn và
long hữu toàn” thì long tả toàn là long đi theo chiều Dương và long hữu
toàn là long đi theo chiều Âm.
Chương thứ bảy nói về “Thủy pháp” có nói
về âm dương của ngũ hành:
Bình mộc Giáp Ất – Giáp thì: mộc dương
Ất là: âm mộc, đã tường
Phỏng đây suy biết: Âm dương ngũ hành.
Chương thứ tám nói về “Thấu long” là nói
về chính khí của long. Chính khí của 24 long, trong đó có 12 Âm long và
12 Dương long.
Chương thứ chín nói về “hướng huyệt của
24 long” trong đó có 12 âm hướng và 12 dương hướng.
Hai câu đầu của chương thứ chín:
126. Lại luận long hướng các phương
127. Tà khí tạp bác, âm dương cho thuần.
Còn gợi ý thêm về thôi quan pháp, nói về:
long, thủy, sa toàn âm, và long, thủy, sa toàn dương, hoặc long thủy sa
toàn quý, long thủy sa toàn tiện, nó khai triển thêm âm dương trên một
trạng thái khác.
(Chúng tôi sẽ trình bày kỹ thôi quan pháp
ở những sách về địa lý xuất bản sau).
Chương thứ mười nói về “Kết luận” bài Tầm
long Gia truyền Bảo Đàm, thì cụ Tả Ao nhắc lại những điều quan hệ về
phần kỹ thuật Địa lý mà Cụ đã trình bày ở chín chương trên: những căn
bản về địa lý và giống như các cổ học thuật Đông phương khác cũng chỉ có
hai chữ Âm dương là quan trọng.
159. Âm long, âm hướng thủy đồng
160. Dương long, dương hướng thủy cung
một bề
161. Âm dương đều đã hòa suy
162. Mọi điều nhiệm nhặt, trước suy đã
tường.
Rồi Cụ mới gói ghém cảm tưởng của Cụ về
khoa địa lý vào 12 câu chót từ câu 163 đến câu 174 như dưới đây:
163. Báu này yêu tựa ngọc vàng
164. Được thời nên trọng, nên sang, nên
giàu.
Khoa địa lý là có thật, nhưng vì là quan
trọng và bí hiểm nên có nhiều man thư. Ngay cả bên Trung Quốc cũng ít
người học được chân truyền. Nếu học được chân thư do chân sư truyền thì
quý báu lắm. Cụ Tả Ao nhận xét như vậy, vì chính Cụ đã thực hành nó
nhiều năm và thấy rất đúng. Cụ yêu quý khoa Địa lý như vàng như ngọc. Nó
quý là phải vì đạt được nó thì có thể để được đất, làm xoay chuyển
nghèo thành giàu, hèn thành sang.
Bởi lẽ bù trừ, Cụ Tả Ao thay trời ban
phát lộc về địa lý cho đời thì cụ phải chịu phần nào kém lộc về địa lý,
do đó cụ không giúp cho mình được nhưng cụ đã giúp cho thiên hạ. Nhiều
người nhờ Cụ mà giàu có, sang trọng rồi. Nó không phải là lời đồn cửa
miệng mà là sử sách có ghi chép.
165. Lấy tín, lấy kính làm đầu
166. Đạo có sở cầu, chí có ắt nên.
Khoa địa lý vì khó nên có ít người học
được chu đáo. Ta thấy nhiều người để đất mà không phát. Vì lẽ thầy địa
lý giỏi lại rất thận trọng, không mấy khi bạ ai cũng cho đất lớn. Các
thầy giỏi thường chỉ giúp cho những người quá nghèo và hiền lành những
đất trung bình cho bớt nghèo, hoặc không có con cho có chút ít con nối
dõi tông đường, bởi hai lẽ:
Thứ nhất là làm một kiểu đất quan trọng
rất là cực nhọc chứ không phải dễ dàng gì, dù là thầy giỏi.
Thứ hai là thầy địa lý cũng không có
nhiều thì giờ, gò ép, tìm kiếm lâu công đất lớn cho người không có ân,
tình, nghĩa, lụy với thầy hay với quốc gia xã hội.
Tuy nhiên, nếu thấy giàu lòng tin và kính
trọng thầy, thì cũng có thể làm thầy chuyển tâm cố gắng hơn chút nữa
kiếm đất cho.
Lấy kính lấy tín làm đầu
Muốn học nó hay muốn để đất thì vấn đề
đầu tiên là phải kính trọng và tin tưởng nó.
Đạo có sở cầu chí có ắt nên
Còn những người muốn học địa lý nếu tin
nó, quyết tâm, cố sức học hỏi, nghiên cứu, thì lâu ngày cũng có thể đạt
được khoa này. Nếu là người có đạo tâm thì hay gặp được cơ duyên dễ dàng
cho sự thành đạt hơn.
167. Lọ là cưỡi hạc đeo tiền
168. Trước tiên học lấy thần tiên trên
đời.
Khoa địa lý, Cụ Tả Ao cho là quan trọng
nên Cụ kính, cụ tin như kính, tin một đạo giáo. Chứng cớ là cụ đã dùng
cả đời người theo đuổi nó, rồi truyền lại cho đời sau những kinh nghiệm
giản dị, chân thực về địa lý.
Khi thụ đắc được khoa này rồi. Cụ thấy
hoàn toàn sung sướng và mãn nguyện.
Cụ thấy rằng dù có tu thành tiên (cưỡi
hạc) hoặc có nhiều tiền đi nữa (đeo tiền) cũng không thích thú bằng
thành đạt về khoa địa lý.
Lọ là cưỡi hạc đeo tiền
Và chính lúc đang nghiên cứu Địa lý, ra
đồng sống với thiên nhiên, con người đó cũng đã đang là thần tiên ở trên
cõi đời này rồi.
Trước tiên học lấy thần tiên trên đời
169. Ắt là gọi có chúa tôi
170. Mưa móc ơn trời phúc thay thượng thư
Nếu nhờ có khoa địa lý kiếm được đất phát
quan thì đươc thỏa mộng bình sinh, công danh nhẹ bước vân trình, như
thế là làm tròn nghĩa quân thần với vua (Chúa) và với Nước:
Ắt là gọi có Chúa tôi
Nhưng nếu có phúc, được đất phát lớn, làm
đến Thượng thư thì lại được hưởng ơn Vua, lộc nước nhiều hơn nữa:
Mưa móc ơn Trời, phúc thay Thượng thư
171. Hòa nhà phú quý phong lưu
172. Con con, cháu cháu, thiên thu, dõi
truyền.
Được đất lớn thì cả nhà, cả họ đều phú
quý, phong lưu.
Hòa nhà phú quý, phong lưu
Và đất phát bền thì không những một đời
phát mà nhiều đời sau cũng được hưởng
Con con, cháu cháu thiên thu, dõi truyền
173. Đến khi vui đạo thánh hiền
174. Ứng lời học trước thần tiên chép
bàn.
Cụ Tả Ao vui cảnh địa lý. Cụ cho địa lý
cũng là một khoa học của Thánh hiền để lại, khoa học này được nâng lên
làm đạo vì nó cân nhắc phúc đức người ta, nó khuyến khích người ta cố
gắng làm trọn đạo người và tạo thêm phúc để có nhiều triển vọng được
hưởng đất kết.
Đến khi vui đạo thánh hiền
Cụ Tả Ao vui với địa lý của Thánh hiền,
Cụ sống sát với quần chúng chất phác, lương thiện tại thôn quê. Cụ yêu
thiên nhiên vì nó là bối cảnh cho việc Đạt Đạo Thần Tiên của Cụ, và
trong lúc thư thả cụ đem những gì cụ học được về chân truyền địa lý,
những gì cụ có kinh nghiệm về địa lý, cụ viết lại để truyền cho hậu thế,
kẻo mất đi của báu của tiền nhân.
Ứng lời học trước, thần tiên chép bàn
TRÍCH MỘT ĐOẠN LỜI NÓI ĐẦU
CỦA BỘ SÁCH
TẢ AO ĐỊA LÝ TOÀN THƯ
(Tức Tả Ao Địa Lý tiên sinh
truyền)
Soạn giả Cao Trung
Là cuốn sách thứ ba trong Tủ sách Gia Bảo
sắp xuất bản.
Cuốn địa lý Tả Ao địa lý toàn thư, nguyên
tác là Tả Ao tiên sinh truyền là toàn bộ địa lý gia truyền của dòng họ
Tả ao. Sau trên 300 năm sao đi chép lại, hiện nay nó có tới sáu bản trên
toàn quốc.
Những vị học địa lý ai cũng mong có sách
địa lý của Cụ Tả Ao, nhưng nếu tìm được bản chính thì đó là điều đại
hạnh ngộ. Chúng tôi đã nhiều năm sưu tầm tài liệu địa lý của cụ Tả Ao và
được biết đây là chính bản, có giá trị nhất trong 6 bản cùng loại, mà
quý vị yêu chân thư về địa lý hằng mơ ước.
Có sách rồi làm sao kiếm được người có đủ
chữ Hán và kiến thức địa lý, dịch ra Hán Việt thì sách mới hữu dụng.
Biết thế, nên chúng tôi phải đóng góp với một số chân thư và một số các
vị giỏi chữ Hán cùng chữ Nôm, làm việc liên tiếp mấy năm, mới dịch xong
bộ này. Thế là chúng ta đã có bản dịch đúng đắn và không hề phản lại
nguyên bản.
Cái khó của việc dịch sách này, không
những là bởi khoa địa lý viết bằng cổ văn theo lối chữ đã thảo khó đọc
khó dịch, mà nói lại có phần nôm bên cạnh phần hán tự, thành ra việc
dịch đã khó, lại khó hơn nữa.
- Thế rồi, việc dịch này, nếu không có sự
tích cực tham gia của người đã nghiên cứu địa lý thì kết quả trên
phương diện kỹ thuật địa lý, cũng lại là vấn đề cần phải xét lại.
- Sau nữa, phương pháp viết sách của
người xưa, ít được trình bày bằng cách chia thành từng phần, từng tiết
mục, có đánh số rõ ràng phân minh, nên dù là có sạch dịch đúng rồi, cũng
vẫn còn vấn đề khó khăn cho người khảo cứu. Cần tra cứu lại nguyên bản
những điểm nghi ngờ khó hiểu.
- Để giúp ích cho quý vị khảo cứu quyển
địa lý này, chúng tôi không những phải cố gắng kiếm cho kỳ được chính
bản, phải thận trọng dịch, xong rồi lại còn lại phải làm công việc phân
bản dịch và nguyên bản ra làm nhiều phần, mỗi phần đều có nhiều tiết,
mỗi tiết có nhiều mục. Tất cả các tiết mục đều phải trình bày riêng
biệt, và đánh số phân minh, để quý vị xem bản dịch có chỗ nào nghi ngờ,
sẽ dễ đối chiếu, để xác định lại câu văn, cho đúng với tinh thần và ý
hướng đích thực của nó. Ngoài ra, tiếp theo chúng tôi còn viết thêm phần
hướng dẫn của từng chương, tiết để quý vị đỡ phần nào công việc tìm
kiếm, suy luận trong khi nghiên cứu nó.
Tác giả CAO TRUNG
0 comments:
Post a Comment